Thứ Tư, 18 tháng 5, 2022

KHÔNG THỂ PHỦ NHẬN TÍNH KHOA HỌC VÀ CÁCH MẠNG HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ CỦA C.MÁC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

 Trước sự phát triển chủ nghĩa tư bản hiện đại, các học giả tư sản, các phần tử phản động, cơ hội liên tục tung ra những luận điệu xuyên tạc học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác, cho rằng học thuyết đã lỗi thời, không còn mang tính cách mạng và khoa học và đến nay không còn phù hợp. Nếu cứ theo những quan điểm trên thì phải chăng là như vậy? Bài viết sẽ tập trung làm sáng tỏ vấn đề trên.

Học thuyết giá trị thặng dư là “hòn đá tảng” trong học  thuyết kinh tế của C.Mác. Vì vậy, kẻ thủ của giai cấp vô sản ý thức được rằng nếu bác bỏ được học thuyết giá trị thặng dư thì sẽ bác bỏ được các học thuyết kinh tế khác của C.Mác. Cũng chính vì thế ngay sau khi ra đời, học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác đã luôn bị các nhà “bồi bút” của giai cấp tư sản, các lực lượng cơ hội chính trị và thù địch tấn công với thái độ chủ yếu không phải là phản biện khoa học mà là xuyên tạc, chống phá nhằm phủ nhận học thuyết.

Trong giai đoạn hiện nay, sự xuyên tạc, chống phá đó ngày càng quyết liệt, với những quan điểm mang nặng tính chủ quan, thiên kiến, tư biện và thiếu tính khách quan khoa học trong phương pháp xem xét. Họ đã dựa ra những hiện tượng bề ngoài, “ánh hào quang” của chủ nghĩa tư bản để nhào nặn, tô vẽ xã hội tư bản, trên cơ sở đó tiếp tục bóp méo, xuyên tạc tính đúng đắn không thể phủ nhận học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy, để bác bỏ quan điểm trên, cần phải nắm vững tính khoa học và cách mạng của học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác.

Tính khoa học và cách mạng của học thuyết giá trị thặng dư

Khi nghiên cứu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, C.Mác đã phát hiện ra quy luật giá trị thặng dư, trên cơ sở đó, ông đã vén lên bức màn bí mật của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Cho đến nay, chưa có học giả nào có thể đưa ra một lý luận khả dĩ để bác bỏ được tính cách khoa học và cách mạng trong học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác. Tính khoa học và cách mạng đó được thể hiện trên những khía cạnh sau:

Trước hết, học thuyết giá trị thặng dư là hệ thống lý luận khoa học, được xây dựng trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc những tri thức của nhân loại và tài năng trí tuệ thiên bẩm của C.Mác và Ăngnghen.

Học thuyết giá trị thặng dư được hình thành trên cơ sở học thuyết giá trị - lao động, mà trực tiếp là việc phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa, nhờ đó C.Mác đã giải quyết được những bế tắc trong lý luận giá trị của các nhà kinh tế chính trị trước đó không giải quyết được. Thực tế cho thấy, việc tìm ra thực thể của giá trị là lao động và phát hiện ra hai thuộc tính của hàng hóa không phải chỉ đến C.Mác mới phát hiện ra. Trước C.Mác đã có nhiều người phát hiện như: A.Smit, Đ.Ricacđo… Nhưng lao động nào tạo ra giá trị của hàng hóa thì trước C.Mác chưa có ai giải đáp một cách đầy đủ. C.Mác là người đầu tiên phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa. Trên cơ sở đó C.Mác đi vào nghiên cứu giá trị thặng dư.

Nghiên cứu về giá trị thặng dư, trước C.Mác đã có nhiều nhà kinh tế học nêu ra, nhưng họ chỉ nghiên cứu giá trị thặng dư dưới những hình thái đặc thù của nó là lợi nhuận, lợi tức, địa tô. Đến C.Mác, ông nghiên cứu giá trị thặng dư dưới dạng thuần túy, và đã chỉ ra được nguồn gốc giá trị thặng dư là lao động không công của công nhân làm thuê. Theo C.Mác, khi người công nhân bán sức lao động cho nhà tư bản, nhà tư bản sẽ tiêu dùng sức lao động này trong sản xuất sẽ dẫn tới chỗ tạo ra một giá trị lớn hơn giá trị sức lao động của người công nhân, ngay cả khi họ tuân thủ theo đúng quy luật giá trị. C.Mác đã chứng minh một cách khoa học rằng: trong quá trình sản xuất, lao động cụ thể bảo tồn và di chuyển giá trị cũ (c) vào trong sản phẩm mới, lao động trừu tượng tạo ra giá trị mới (v + m) và toàn bộ giá trị hàng hóa bao gồm (c + v + m). Theo C.Mác, giá trị thặng dư là phần giá trị dôi ra ngoài giá trị sức lao động do lao động không công của người công nhân tạo ra bị nhà tư bản chiếm đoạt.

Nhưng C.Mác không tự hạn chế trong những luận điểm chung chung mà đã phân tích một cách sâu sắc, trên cơ sở rất nhiều tính toán toán học để luận giả tỷ suất của giá trị thặng dư, những phương pháp kéo dài ngày lao động; chỉ ra bản chất của tiền lương tư bản chủ nghĩa; phân tích một cách sâu sắc và khoa học các hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư như lợi nhuận, lợi tức, địa tô; vạch rõ cơ chế chuyển hóa giá trị thặng dư thành lợi nhuận và lợi nhuận bình quân, giá trị hàng hóa thành giá cả sản xuất trong điều kiện tự do cạnh tranh, từ đó làm cơ sở lý luận để giải quyết vấn đề địa tô tuyệt đối, điều mà các nhà lý luận kinh tế trước không thể giải quyết được.

Có thể thấy, trên cơ sở học thuyết giá trị - lao động với việc phân tích tính chất hai mặt của lao động của người sản xuất hàng hóa và nguồn gốc giá trị thặng dư với tư cách là nguồn gốc đầu tiên của các thu nhập tư bản chủ nghĩa mà C.Mác đã xây dựng được phát kiến khoa học hết sức vĩ đại, kéo theo cả một bước ngoặc cách mạng trong khoa kinh tế chính trị. Không phải ngẫu nhiên mà V.I.Lênin gọi học thuyết giá trị thặng dư là “hòn đá tảng” của học thuyết kinh tế của C.Mác, mà học thuyết kinh tế của C.Mác lại là nội dung chủ yếu của học thuyết của chủ nghĩa Mác.

Thứ hai, học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác đã vạch quy luật vận động kinh tế của xã hội tư bản – quy luật giá trị thặng dư – từ đó bóc trần những bí mật của chủ nghĩa tư bản, bản chất bóc lột tinh vi của giai cấp tư sản đối với gia cấp công nhân mà trước đó chưa ai làm được.

Khi phát kiến và lý giải học thuyết giá trị thặng dư, C.Mác đã tìm ra quy luật vận động của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa hiện đại và của xã hội tư sản do phương thức đó sinh ra. Theo đó, C.Mác khẳng định ở phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, quy luật kinh tế cơ bản là quy luật sản xuất giá trị thặng dư. Quy luật này phản ánh mối quan hệ bản chất nhất giữa hai giai cấp trong xã hội tư bản, nó chi phối sự hoạt động của các quy luật khác trong xã hội tư bản. Theo C.Mác, giá trị thặng dư không đơn thuần là giá trị dôi ra ngoài giá trị sức lao động, mà là một quan hệ xã hội phản ánh quan hệ bóc lột giữa một bên là người sở hữu tư liệu sản xuất, với bên kia là người sở hữu hàng hóa sức lao động, giữa nhà tư bản với người lao động làm thuê.

C.Mác cũng đã bóc trần sự che đậy tinh vi của việc sản xuất giá trị thặng dưới chủ nghĩa tư bản. Trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, việc mua bán hàng hóa sức lao động trên thị trường diễn ra một cách hoàn toàn tự nguyện, theo đúng quy luật giá trị dựa trên nguyên tắc ngang giá. Điều này dễ gây ấn tượng về sự “bình đẳng hoàn toàn” giữa nhà tư bản và người công nhân. Bên cạnh đó, để thu được nhiều giá trị thặng dư, nhà tư bản tìm cách cải tiến kỹ thuật, áp dụng khoa học công nghệ, đưa máy móc hiện đại vào sản xuất, sử dụng các biện pháp tâm lý khai tác năng lực tối đa của công nhân… Nếu nhìn bề ngoài dễ lầm tưởng rằng nhà tư bản muốn giảm cường độ lao động cho công nhân, quan tâm tới cuộc sống của công nhân. Thật ra, những biện pháp đó chỉ là thủ đoạn để giai cấp tư sản cột chặt sự lệ thuộc của công nhân vào họ với mục đích là bòn rút được nhiều giá trị thặng dư. C.Mác còn chỉ ra sự tinh vi trong sản xuất giá trị thặng dư của nhà tư bản khi phân tích sự chuyển hóa của các phạm trù giá trị thặng dư, tỷ suất giá trị thặng dư thành lợi nhuận, tỷ suất lợi nhuận, tỷ suất lợi nhuận bình quân… Sự chuyển hóa đó dễ làm cho người ta lầm tưởng rằng toàn bộ tư bản sinh ra lợi nhuận, xóa nhòa ranh giới giữa tư bản bất biến và tư bản khả biến và không thấy được trình độ, mức độ bóc lột của nhà tư bản đối với công nhân, cho rằng dưới chủ nghĩa tư bản “tiền đẻ ra tiền”.

Với những lập luận và chứng minh một cách khoa học, C,Mác đã vạch rõ bí mật và sự che đậy tinh vi của nguồn gốc các thu nhập tư bản chủ nghĩa, đã tìm ra được nguồn gốc duy nhất của chúng. Vì vậy, không phải ngẫu nhiên mà các nhà kinh tế học tư sản và bọn tay sai của chúng đã chi phí rất nhiều bút mực vào những mưu toan vô hiệu quả nhằm phủ nhận tính khoa học, cách mạng, qua đó muốn bác bỏ học thuyết giá trị thặng dư.

Thứ ba, học thuyết giá thặng dư đã chỉ ra sự ra đời, tồn tại, phát triển và tiêu vong của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, là vũ khí lý luận sắc bén của giai cấp công nhân đấu tranh chống lại giai cấp tư sản.

Từ việc phân tích quá trình sản xuất giá trị thặng dư trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, C.Mác đã chỉ ra quy luật giá trị thặng dư ra đời cùng với sự ra đời của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, nó tồn tại và phát huy tác dụng cùng với sự tồn tại và vận động của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Theo C.Mác, chủ nghĩa tư bản chỉ nảy sinh khi xuất hiện những điều kiện và khả năng chiếm lao động thặng dư của lao động làm thuê, khi tiền và tư liệu sản xuất biến thành phương tiện bóc lột giá trị thặng dư. Cũng chính chạy theo việc bóc lột càng nhiều giá trị thặng dư, chủ nghĩa tư bản đã phát triển từ thấp đến cao, làm cho lực lượng sản xuất ngày càng phát triển, làm sâu sắc thêm mâu thuẫn giữa chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất với lực lượng sản xuất phát triển cao mang tính xã hội hóa sâu sắc. Chính mâu thuẫn sẽ đưa đến sự thay thế tất yếu chủ nghĩa tư bản bằng một xã hội cao hơn.

Có thể nói, sáng tạo ra học thuyết giá trị thặng dư, C.Mác đã làm một cuộc cách mạng trong lĩnh vực kinh tế - chính trị học, chỉ ra quy luật vật động kinh tế của xã hội tư bản, vạch trần bí mật của chế độ tư bản là bóc lột giá trị thặng dư do sức lao động của những người lao động làm thuê tạo ra. Bóc lột giá trị thặng dư là bản chất và là mục tiêu của chủ nghĩa tư bản, là căn nguyên của mọi mâu thuẫn đối kháng giữa tư bản và lao động, là vấn đề không thể giải quyết được trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Ph. Ăngghen cho rằng, việc phát hiện ra học thuyết giá trị thặng dư là công lao vĩ đại nhất của C.Mác. Nó chiếu sáng rực rỡ lên những lĩnh vực kinh tế mà trước kia những nhà xã hội chủ nghĩa cùng mò mẫn trong bóng tối không kém gì những nhà kinh tế học tư sản. Chủ nghĩa xã hội khoa học bắt đầu từ ngày có giải đáp đó, và nó là điểm trung tâm của chủ nghĩa xã hội khoa học.

Ngày nay, học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác vẫn giữa nguyên giá trị

Trong giai đoạn hiện nay, chủ nghĩa tư bản đã có sự phát triển rất nhiều so với thời C.Mác nghiên cứu, như Tổng bí thư Nguyễn Phú trọng đã chỉ ra: “Chủ nghĩa tư bản chưa bao giờ mang tính toàn cầu như ngày nay và cũng đạt được nhiều thành tựu to lớn, nhất là trong lĩnh vực giải phóng và phát triển sức sản xuất, phát triển khoa học và công nghệ”[1]. Chủ nghĩa tư bản thế giới đã ra sức tự điều chỉnh, thúc đẩy các chính sách “tự do mới” trên quy mô toàn cầu, nhờ đó hiện vẫn còn tiềm năng phát triển. Tuy nhiên, ngày nay trong xã hội tư bản, bóc lột lao động làm thuê và chiếm đoạt giá trị thặng dư vẫn tồn tại như nó đã từng tồn tại trong suốc hơn 5 thế kỷ qua, song với những tiến bộ của cuộc cách mạng khoa học, công nghệ, những điều chỉnh thích nghi cả về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, bóc lột và chiếm đoạt giá trị thặng dư trong xã hội tư bản đã có những biểu hiện mới.

Hiện nay, giai cấp tư sản đang tận dụng những thành tựu của cách mạng khoa học – công nghệ hiện đại, nhất là cuộc cách  mạng công nghiệp 4.0 để điều chỉnh sự phát triển của lực lượng sản xuất. Nhiều công ty, nhà máy, cơ sở sản xuất đạt trình độ tự động hóa rất cao; các dây chuyền sản xuất với các máy móc tự động, các robốt thay thế cho con người được sử dụng ngày càng nhiều với năng suất lao động cao. Hệ thống máy tính, trí tuệ nhân tạo đã và đang dần thay thế nhiều hoạt động quản lý sản xuất, phân phối của con người, thay thế cho việc tổ chức sản xuất tập trung, hoàn chỉnh một sản phẩm trước đây.

Trong quan hệ sản xuất cũng có những điều chỉnh nhất định. Hình thức sở hữu tư nhân, nền tảng của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, không còn tồn tại dưới hình thức sở hữu của những người sản xuất độc lập, mà là sở hữu tư nhân đã được xã hội hóa. Hình thức sở hữu cổ phần mà C.Mác xem là hình thức sở hữu quá độ lên chủ nghĩa công sản, ngày nay càng phát triển mạnh mẽ, và hiện là hình thức sở hữu phổ biến ở các nước tư bản chủ nghĩa. Đông đảo quần chúng nhân dân bao gồm cả công nhân, người lao động thuộc mọi tầng lớp xã hội, đã trở thành các chủ sở hữu cổ phần lớn nhỏ khác nhau. Đương nhiên, là các chủ sở hữu cổ phần lớn nhất vẫn thuộc về giai cấp tư sản. Cùng với đó, hình thức sở hữu hỗn hợp giữa nhà nước và tư nhân, giữa các quốc gia, đã phát triển rất đa dạng, hầu như chỉ có rất ít số công ty một chủ sở hữu. Trong khi đó, sở hữu trí tuệ đã ngày càng trở lên quan trọng với những quy định pháp luật chặt chẽ mà thời C.Mác hầu như chưa có.

Trong lĩnh vực quản lý, phân phối, chủ nghĩa tư bản hiện đại cũng có những điều chỉnh đáng kể. Nhiều biện pháp đã được thực hiện như tăng tiền lương, giảm giờ làm, cải thiện điều kiện sinh hoạt cho những người lao động…Những người lao động không những có đủ tiền lương để đáp ứng các nhu cầu về vật chất mà còn cả nhu cầu về tinh thần. Ở hầu hết các nước tư bản phát trển, thời gian lao động mỗi tuần đã được rút ngắn còn khoảng 40 giờ, và số ngày làm việc chỉ còn 4 đến 5 ngày. Bên cạnh đó, một bộ phận người lao động làm thuê có trình độ cao, có thu nhập cao, được đảm nhận các vị trí lãnh đạo, quản lý, chuyên gia ở các lĩnh vực khác nhau trong guồng máy sản xuất của tư bản. Chủ nghĩa tư bản hiện đại thông qua hệ thống các văn bản pháp luật, thông qua các thể chế, các quy định do nhà nước tư sản ban hành đã làm cho các quan hệ giữa tư bản và lao động, giữa chủ và thợ được điều chỉnh mềm dẻo hơn, nó như những chiếc “van điều áp” làm giảm thiểu những mâu thuẫn giữa tư bản với lao động, xoa dịu và tránh được những mâu thuẫn gay gắt gây nên các xung đột xã hội.

Song song với quá trình làm dịu các mâu thuẫn trong nước, chủ nghĩa tư bản hiện đại còn hướng các mâu thuẫn trong nước ra bên ngoài, với việc vươn những “chiếc vòi bạch tuộc”, thông qua con đường xuất khẩu tư bản dưới hình thức đầu tư trực tiếp (FDI) để “hút máu” của lao động làm thuê ở các nước đang phát triển. Dòng vốn FDI lúc đầu được chảy khá mạnh ở các ngành thuộc khu vực sản xuất, nhưng càng về sau càng có xu hướng gia tăng ở những ngành thuộc khu vực dịch vụ - những ngành hiện có tỷ suất bóc lột giá trị thặng dư cao. Sự chuyển hướng đó vừa làm cho tổng lợi nhuận thu được vẫn tăng lên, vừa giảm thiểu tính chất gay gắt những mâu thuẫn vốn có giữa tư bản và lao động trong lòng xã hội tư bản. Thông qua những dòng đầu tư, cho vay, các ông chủ tư bản ở các nước phát triển vẫn hàng ngày, hàng giờ bóc lột lao động làm thuê ở các nước đang phát triển thu lợi nhuận kếch xù.

Những đề cập trên mới mang tính khái quát, dù chưa phản ánh được đầy đủ, toàn diện xã hội tư bản hiện đại, nhưng thông qua đó cho ta thấy những nét phát triển mới của chủ nghĩa tư bản hiện đại, đồng thời cũng phản ánh những nét mới về bóc lột lao động làm thuê và chiếm đoạt giá trị thặng dư của nhà tư bản đối với người công nhân. Nhìn về tổng thể, không phải chủ nghĩa tư bản đã bớt “tàn bạo đi”, hoặc đã “hiền” hơn như người ta vẫn tô vẽ cho những việc làm bộc lộ ra bên ngoài. Những gì mà chủ nghĩa tư bản hiện đại đang thể hiện vẫn không nằm ngoài tính quy luật mà C.Mác đã chỉ ra.

Chủ nghĩa tư bản hiện đại vẫn không thay đổi được bản chất, dù những hình thức bóc lột có biến tướng, tinh vi đến mức nào chăng nữa thì bản chất bóc lột của tư bản đối với lao động vẫn là bóc lột giá trị thặng dư - tức là bóc lột lao động sống của người lao động. Giá trị thặng dư, lợi nhuận vẫn là động lực thôi thúc các nhà tư bản, là mục tiêu để nhà tư bản bỏ vốn đầu tư. Ở đâu, chỗ nào có thể thu được giá trị thặng dư, thu được lợi nhuận thì ở đó nhất định tư bản có mặt. Nhưng sự điều chỉnh thích nghi đã làm cho chiếc bánh lợi nhuận “bé đi” tương đối. Quá trình đeo đuổi lợi nhuận tất phải tăng tích lũy tư bản. Tăng tích lũy tư bản, tức là tái sản xuất tư bản được tiến hành mở rộng cả chiều rộng và chiều sâu, tuy làm tăng quy mô lợi nhuận, song lại càng làm gia tăng tình trạng bần cùng hóa người lao động, tức là làm tăng tính chất gay gắt của các mâu thuẫn vốn có trong lòng xã hội tư bản.

Hiện tại trong xã hội tư bản, tình trạng phân hóa giàu nghèo, bất bình đẳng trong xã hội không giảm xuống mà ngày càng gia tăng. Của cải phần lớn vẫn tập trung trong tay giai cấp tư sản, “một bộ phận rất nhỏ, thậm chí chỉ là 1% dân số, nhưng lại chiếm giữ phần lớn của cải, tư liệu sản xuất, kiểm soát tới ¾ nguồn tài chính, tri thức và các phương tiện thông tin đại chúng chủ yếu và do đó chi phối toàn xã hội[2]Trên thế giới, một nửa tổng tài sản  “nằm trong tay 1% những người giàu nhất, trong khi một nửa dân số thế giới chỉ sở hữu dưới 1% tổng của cải toàn cầu”[3]. Thu nhập bình quân của 10% dân số giàu nhất tại các nước OECD gấp khoảng 9 lần thu nhập bình quân của 10% dân số nghèo nhất. Mặc dù thu nhập của công nhân có tăng lên, đời sống vật chất của công nhân được cải thiện, nhất là công nhân ở các nước tư bản phát triển, công nhân có tay nghề cao, song so với thu nhập và mức sống của gia cấp tư sản thì ngày càng cách xa, công nhân vẫn bị bần cùng hóa tương đối và thuyệt đối như nhận định của C.Mác cách đây hơn 170 năm.

 Cho đến nay chủ nghĩa tư bản vẫn không thể khắc phục được những mâu thuẫn cơ bản vốn có của nó, đó là mâu thuẫn giữa tư bản với lao động làm thuê; mâu thuẫn giữa lợi ích của giai cấp tư sản với lợi ích của tuyệt đại đa số người lao động; mâu thuẫn giữa các tổ chức độc quyền tư bản, giữa các công ty xuyên quốc gia, giữa các trung tâm quyền lực tư bản chủ nghĩa với nhau; mâu thuẫn giữa các nước tư bản phát triển với các nước đang phát triển, chậm phát triển. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện nay với những khuyết tật của nó “đó là hậu quả của một quá trình phát triển kinh tế - xã hội lấy lợi nhuận làm mục tiêu tối thượng, coi chiếm hữu của cải và tiêu dùng vật chất ngày càng tăng làm thước đo văn minh, lấy lợi ích cá nhân làm trụ cột của xã hội”[4].

 Mặc dù chủ nghĩa tư bản ngày nay đang có nhiều thành tựu, “tăng trưởng kinh tế hiện đại và sự truyền bá tri thức đã giúp tránh được sự diệt vong theo quan quan điểm của Marx, nhưng không giúp điều chỉnh những cấu trúc tư bản sâu xa và tình trạng bất bình đẳng - hay chí ít là không nhiều như người ta đã từng hình dung trong những thập niên lạc quan sau Thế chiến II”[5]. Vì vậy. “chủ nghĩa tư bản không phải là điểm dừng cuối cùng của lịch sử nhân loại”[6].

Như vậy, hoàn toàn là sai lầm khi chỉ nhìn vào bề ngoài những gì đang có ở các nước tư bản phát triển để từ đó phủ nhận tính khoa học và cách mạng trong học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác. Chỉ có bằng sự phân tích sâu sắc, bằng cách nhìn khách quan, toàn diện, lịch sử - cụ thể và phát triển mới thấy được những gì ẩn giấu đằng sau, bên trong, ở tầng sâu của xã hội tư bản hiện nay, thấy được nguồn gốc, bản chất của sự giàu có của các nước tư bản phát triển, qua đó càng cho thấy tính cách mạng và khoa học trong học thuyết này.  Thực tiễn đã cho thấy, bất chấp mọi công kích, bôi nhọ, phê phán, học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác vẫn vững vàng và phát huy vai trò trong thời đại mới, vẫn tỏ rõ là một học thuyết tràn đầy tính khoa học và cách mạng sâu sắc, chưa có học thuyết nào thay thế được. Những luận cứ, luận chứng và cách lập luận sâu sắc, logic, chặt chẽ thể hiện ở mỗi phạm trù, mỗi luận điểm trong học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác cho tới nay vẫn là chân lý được thực tiễn kiểm nghiệm.

Đối với chúng ta, những người cộng sản sản chân chính, cần phải hiểu đầy đủ, tường minh, sâu sắc từng luận điểm “gốc” của các nhà kinh điểm mácxít, luôn luôn xem xét, nghiên cứu với thái độ khách quan, khoa học những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin; luôn kiên định và vững vàng trên nền tảng tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin để đấu tranh với những quan điểm sai trái, thù địch. Khắc phục triệt để căn bệnh giáo điều, chủ quan, duy ý chí, cũng như những biểu hiện xét lại và phủ nhận học thuyết Mác – Lênin. Trong cuộc đấu tranh này không chỉ là việc phê phán, phán bác những luận điệu, xuyên tạc, bóp méo, vu cáo, bịa đặt của các thế lực thù địch. Điều quan trọng và có ý nghĩa hơn cả là phải góp phần khẳng định tính khoa học và cách mạng của nền tảng tư tưởng mà Đảng ta đã lựa chọn; xây dựng, củng cố niềm tin; không ngừng đổi mới tư duy lý luận, góp phần vào bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin trong điều kiện mới. Có như vậy, mới làm cho chủ nghĩa Mác – Lênin tiếp tục được củng cố, giữ vững được trận địa và phát huy ảnh hưởng, thích ứng với mọi hoàn cảnh của lịch sử cụ thể, có sức sống dồi dào và không ngừng sáng tạo, luôn đứng vững trên tuyết đầu của thời đại.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Tuyên giáo Trung ương, “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam – Dư luận trong nước và quốc tế về bài viết của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng”, Nhà xuất bản chính trị quốc gia Sự thật, H. 2021

2. Nguyễn Bá Dương, “Giá trị lịch sử và ý nghĩa thời đại của Chủ nghĩa Mác”, Nhà xuất bản chính trị quốc gia Sự thật, H. 2018.

3. Nguyễn Phú Trọng, “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Nxb CTQG, H. 2022

 

 

 

 



[1] Nguyễn Phú Trọng, “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Nxb CTQG Sự thật, H. 2022, tr 18.

[2], Nguyễn Phú Trọng, Sđd tr 21

[3] Klaus Schwab, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Nxb Thế giới, 2018, tr158.

[4] Nguyễn Phú Trọng Nguyễn Phú Trọng, Sđd tr 20

[5] Thomas Piketty, Tư bản thế kỷ XXI, Nxb trẻ, thành phố Hồ Chí Minh, 2021, tr.10-11

[6] Nguyễn Phú Trọng Sđd tr 20.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét