Đỗ Văn
Tóm tắt: Hiện nay,
chủ nghĩa tư bản có nhiều sự điều chỉnh để phát triển, với những thành tựu đạt
được thì một số người cho rằng bản chất của chủ nghĩa tư bản đã thay đổi, không
còn là chế độ bóc lột mà là chủ nghĩa tư bản nhân văn, nhân đạo, chủ nghĩa tư
bản có ý thức.
Phải thừa
nhận rằng, với sự thay đổi, điều chỉnh cả trong lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất, cả trong cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng đã làm cho chủ nghĩa
tư bản hiện nay có sự phát triển vượt bậc, đóng góp đối với sự phát triển của
thế giới ngày càng to lớn. Tuy nhiên, sự phát
triển đó vẫn không thể vượt ra ngoài khuôn khổ của chủ nghĩa tư bản, trong
lòng nó vẫn tồn tại đầy rẫy những mâu thuẫn,
bất cập. Để hiểu rõ vấn đề này cần
phân tích hết sức khách quan trên cả ba mặt của quan hệ sản xuất:
quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất, quan hệ tổ chức quản lý sản xuất và
phân phối sản phẩm.
1. Các học giả tư sản cho
rằng, ngày nay khoa học ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp, kinh tế hiện đại ngày càng trở thành một nền kinh tế tri
thức. Vì vậy, vấn đề sở hữu tư liệu sản xuất không còn đóng vai
trò quan trọng như đã có trong các thế kỷ trước; sở hữu trí tuệ đã
thay thế vai trò của sở hữu tư liệu sản xuất trong việc đưa loài
người tiến lên; chủ thể của sự phát triển và tiến bộ khoa học là
các nhà khoa học chứ không phải là các ông chủ tư sản!
Trên thực tế
những sáng chế phát minh khoa học và công nghệ được nảy sinh trong
đầu óc một nhà phát minh nào đó, chỉ anh ta biết và thuộc sở hữu
của anh ta. Song phát minh đó chỉ là một tiềm năng sản xuất mới, chưa
thể là một lực lượng sản xuất mới. Để trở thành hiện thực phải
trải qua một quá trình ứng dụng, thử nghiệm nhiều lần trước khi có
thể sản xuất đại trà. Tất cả quá trình đó đòi hỏi phải đầu tư tư
bản, nhiều khi rất tốn kém. Nếu nhà phát minh có tiền, tự mình làm
thử nghiệm, công bố kết quả, đăng ký sở hữu trí tuệ rồi đứng ra
sản xuất theo công nghệ mới thì người đó vừa là nhà tư bản vừa là
nhà phát minh. Tuy nhiên, trong xã hội tư bản có rất ít những trường
hợp như vậy. Phần lớn các nhà khoa học, các nhóm nghiên cứu do không
có tư bản để thử nghiệm, buộc họ phải bán sản phẩm trí tuệ của
mình như một hàng hóa cho nhà tư bản. Nhà tư bản sử dụng hàng hóa
đó như một công cụ hữu hiệu để tăng năng xuất lao động, tăng giá trị
thặng dư cho nhà tư bản. Như vậy, lúc đầu, sáng chế, phát minh, thuộc
sở hữu của nhà khoa học nhưng trên thương trường thông qua hành vi mua
và bán, những sáng kiến phát minh sau đó trở thành của nhà tư bản.
Điều đó có nghĩa khoa học và công nghệ chỉ trở thành lực lượng sản
xuất trực tiếp dưới hình thức là tư bản mà thôi.
Trường hợp
khác, nếu nhà phát minh sáng chế bán bản thân khả năng phát minh
sáng chế cho nhà tư bản, tức bán hàng hóa sức lao động trí óc của
mình cho nhà tư bản, nhà tư bản kết hợp khả năng đó với các thiết
bị nghiên cứu trong các xý nghiệp khoa học do nhà tư bản tổ chức,
thì phát minh sáng chế đó ngay khi mới trong đầu nhà phát minh đã
thuộc sở hữu của nhà tư bản. Như vậy, trong chủ nghĩa tư bản hiện
đại, không thể có việc sở hữu trí tuệ thay thế cho sở hữu tư liệu
sản xuất trong quá trình tạo ra giá trị thặng dư.
Mặt khác, trong
xã hội hiện đại, do đòi hỏi khách quan trình độ văn hóa và nghề
nghiệp của người công nhân cao hơn trước rất nhiều. Cũng có trường
hợp do tính chuyên nghiệp đặc thù của một khâu sản xuất do một người
công nhân nào đó đảm nhiệm mà anh ta có thể mặc cả với ông chủ. Từ
đó, các học giả tư sản cho rằng, ngày nay quyền lực của nhà tư bản
đối với công nhân giảm đi bởi vì công nhân cũng có trí tuệ của mình
và sở hữu nó như là một đối trọng với sở hữu tư bản; rằng mối
quan hệ giữa giới chủ và giới thợ đã thay đổi, mối quan hệ đó là
quan hệ bình đẳng, thậm chí có quan điểm cho rằng do người công nhân
sở chí tuệ nên người công nhân có ưu thế hơn so với chủ sở hữu tư
liệu sản xuất. Các quan điểm trên là hoàn toàn xuyên tạc bở lẽ,
chừng nào xã hội hiện đại vẫn là xã hội tư sản thì mọi quyền lực
chi phối vẫn thuộc về giai cấp nào nắm giữ tư bản, đó là giai cấp
tư sản chứ không có gì thay đổi. Giai cấp tư sản vẫn là giai cấp
thống trị sống; người công nhân vẫn chỉ là người làm thuê cho ông chủ
tư sản mà thôi.
2. Thời C. Mác
sự tách rời giữa tư bản tiền tệ và tư bản sản xuất ở các công ty
cổ phần đã có song chưa nhiều. Nó mới chỉ là những hiện tượng kinh
tế mới mẻ xuất hiện ở những ngành kinh doanh lớn. Ngày nay công ty
cổ phần đã trở thành phổ biến, không chỉ ở các công ty lớn, mà cả
ở các công ty vừa và nhỏ. Trong các công ty cổ phần không chỉ các
nhà tư bản có cổ phần, mà những người công nhân cũng có cổ phần.
Đương nhiên, lợi tức cổ phần được chia bình đẳng cho mọi cổ phiếu.
Song do lượng cổ phiếu ít ỏi, người công nhân không thể nắm quyền chi
phối hoạt động của công ty. Mặt khác, ngày nay trong các công ty cổ
phần, xuất hiện tương đối phổ biến một tầng lớp giám đốc, điều
hành, quản lý; trên thực tế những giám đốc đó vẫn là người làm
thuê cho tư bản bởi lẽ, họ điều hành công ty dưới sự lãnh đạo của
hội đồng quản trị. Tuy nhiên, bên cạnh những giám đốc là người làm
thuê, cũng có một lượng không nhỏ giám đốc đồng thời là chủ tư bản,
họ sở hữu trong tay một tỷ lệ cổ phiếu không nhỏ, có thể giữ địa
vị khống chế. Như vậy, các giám đốc và chủ tư bản đan xen, xâm nhập
lẫn nhau, hình thành một hình thức tư bản tập thể.
Cũng không như
trước đây, các công ty cổ phần cũng hoàn toàn không mang tên một ông
chủ nào nữa. Điều hành công ty là những liên minh tạm thời của những
nhà tư bản. Điều đó, làm cho công nhân và nhân viên của các hãng trong
công ty nhiều khi không biết ông chủ thực sự của mình là ai. Ngược
lại, các ông chủ cũng không biết công nhân của mình là ai. Trong các hệ
thống đó, dường như chủ tư bản, công nhân và nhân viên làm thuê, không
còn ranh giới nữa; tư bản làm quản lý, giám đốc làm chủ sở hữu và
công nhân cũng được chia lợi tức cổ phiếu như nhà tư bản, mọi người
đều trở thành tư bản và đều phải lao động và chẳng ai bóc lột ai
nữa.
Trên thực tế,
không phải thu nhập của mọi tầng lớp đều như nhau, do lượng cổ phiếu
khác nhau nên xét về thu nhập thực tế, công nhân vẫn là công nhân, nhà
tư bản vẫn là nhà tư bản. Giai cấp tư sản vẫn là giai cấp bóc lột,
vẫn sống nhờ vào lao động làm thuê. Chỉ có khác là trong một công ty
hiện đại, người ta không thể biết được chính xác giá trị thặng dư do
người công nhân nào sản xuất và nộp cho ông chủ tư bản cụ thể nào.
3. Ngày nay, với sự xuất hiện
những nhà máy tự động hóa cao, làm xuất hiện huyền thoại về “nhà
máy không người”. Từ đó, các học giả tư sản lại xuyên tạc, phủ nhận
học thuyết giá trị thặng dư của C. Mác từ góc độ khác. Họ cho rằng, ngày nay máy móc hiện đại đã thay thế lao động
sống. Ở những nhà máy tự động, “nhà máy không người” không có lao
động sống và do đó không còn bóc lột giá trị thặng dư nữa.
Trong phân tích quá trình sản
xuất giá trị thặng dư, C. Mác đã phát hiện ra tính chất hai mặt của
lao động sản xuất hàng hóa: lao động cụ thể và lao động trừu tượng.
Vận dụng lý luận đó vào quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa, C.
Mác phát hiện ra tư bản bất biến và tư bản khả biến. Trong quá
trình sản xuất tư bản chủ nghĩa, với tính chất là lao động cụ thể,
lao động của người công nhân đã chuyển nguyên vẹn giá trị cũ của máy
móc, nguyên nhiện vật liệu vào sản phẩm lao động mới và làm cho sản
phẩm đó có một giá trị sử dụng xác định; trong khi đó, vẫn là quá
trình lao động đó, nhưng với tính chất lao động trừu tượng, người
công nhân đã sáng tạo ra một giá trị mới, trong đó có giá trị thặng
dư. Như vậy, dù cho máy móc, các tư liệu lao động có hiện đại, có
vai trò quan trọng, nếu không có chúng thì quá trình sản xuất không
diễn ra thì giá trị thặng dư vẫn chỉ do lao động sống của công nhân
sản xuất chứ không phải do máy móc tạo ra.
Mặt khác, máy móc tự nó không thể tự chạy, mà phải có
người công nhân cho nó chạy, phải theo dõi quá trình vận hành của nó
để xử lý những sự cố kỹ thuật. Nói cách khác, tuy tự động hóa
nhưng vẫn phải có lao động sống của người công nhân làm nhiệm vụ
giám sát, điều hành. Hơn nữa, để dây chuyền tự động hoạt động, xý
nghiệp cần phải có một bộ phận nhân viên lo đầu vào sản xuất, tiếp
liệu đúng thời hạn và chất lượng; lo đầu ra sản phẩm, quảng bá,
tiếp thị và tiêu thụ sản phẩm. Nếu các bộ phận này không làm tốt
thì nhà máy không thể hoạt động được. Như vậy, không thể có cái gọi
“xý nghiệp không người”, trong quá trình sản suất vẫn không thể thiếu
được lao động của người công nhân với tư cách là lao động sống.
Như vậy, từ những phân tích trên chúng ta có thể kết luận: về
hình thức quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ngày nay đã có những
biến đổi nhất định. Song về bản chất, quan hệ sản xuất trong xã hội
tư bản hiện đại vẫn không có gì thay đổi, vẫn là chế độ sở hữu tư
nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất mà thôi. Điều đó cũng
cũng có nghĩa qui luật giá trị thặng dư vẫn là qui luật tuyệt đối
của xã hội hiện đại.
Tài liệu tham khảo
1. PGS, TS Nguyễn Khắc Thân (2002), Tập bài giảng về chủ nghĩa tư bản
hiện đại, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. PGS, TS Bùi Ngọc Quỵnh (2016), Nhận diện chủ nghĩa tư bản ngày nay,
Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội.
3. https://dangcongsan.vn/bao-ve-nen-tang-tu-tuong-cua-dang/quan-he-san-xuat-cua-chu-nghia-tu-ban-duong-dai-nhung-gioi-han-khong-the-vuot-qua-589669.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét