Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình phát triển tổng quát của nền kinh tế Việt Nam, được thực tiễn hơn 35 năm đổi mới khẳng định và ngày càng được thể hiện rõ nét trong thực tiễn. Thế nhưng, vẫn còn tồn tại những quan điểm tiêu cực, chống phá sự lãnh đạo của Đảng cố tình xuyên tạc, phủ nhận quan điểm trên. Họ cho rằng, kinh tế thị trường là của chủ nghĩa tư bản, không thể có kinh tế rhị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, cần có nhận thức đúng cả lý luận và thực tiễn về tính đặc thù của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam để có hành động đúng đắn trong thực tiễn.
Kinh tế thị trường
là nền kinh tế dựa vào thị trường để vận động và phát triển, Ph.Ăng-ghen đã
dùng phạm trù “kinh tế tiền tệ” để mô tả kinh tế thị trường ở giai đoạn sơ
khai, Người viết: “Chính từ đó mà nền kinh tế tiền tệ, đang phát
triển, đã thâm nhập, giống như một chất a-xít ăn mòn, vào lối sống cổ truyền
của các cộng đồng nông thôn, dựa trên cơ sở nền kinh tế tự nhiên”[1]. Nó
là một hệ thống kinh tế tồn tại khách quan trên một trình độ phát triển tương
ứng của lực lượng sản xuất và trở thành một bộ phận quan trọng của quan hệ sản
xuất tương ứng. Nó không phải là một kiểu tổ chức kinh tế do con người tạo ra
bằng ý chí chủ quan của mình, mà hình thành một cách khách quan trong các hoạt
động kinh tế của xã hội loài người. Còn theo C. Mác, kinh tế thị trường là một giai đoạn phát
triển tất yếu của lịch sử mà bất cứ nền kinh tế nào cũng phải trải qua để đạt
tới nấc thang cao hơn trên con đường phát triển và chính
chủ nghĩa tư bản đã kịp thời nắm bắt và tận dụng triệt để kinh tế thị trường để
phát triển rồi thích nghi và tồn tại. Nấc thang cao hơn chính là nền
kinh tế cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Để
chuyển lên nấc thang này, nền kinh tế thị trường phải phát triển hết mức, phải
trở thành phổ biến trong đời sống kinh tế - xã hội.
Kết luận trên của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác đã khái quát quá trình
phát triển của lịch sử nhân loại, trong đó, kinh tế thị trường được xác định là một nấc thang tất yếu, mang tính
phổ biến. Tính phổ biến của kinh tế thị trường thể hiện ở cấu trúc khung
chung cho mọi nền kinh tế thị trường.
Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là sự lựa chọn khách quan, sáng tạo, hợp quy
luật. Đó là kết quả của sự thống nhất giữa lý luận
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, với tư duy sáng tạo, độc lập của
Đảng, Nhà nước ta, là quá trình kết hợp biện chứng giữa các quy luật của kinh
tế thị trường và các quy luật của chủ nghĩa xã hội, là sự gắn kết giữa thành
tựu của nhân loại với thực tiễn Việt Nam. Nền kinh tế thị trường đó mang những
đặc trưng chủ yếu như sau:
Một là, về mục tiêu phát triển của nền kinh tế.
Trong nhiều đặc tính dùng làm tiêu thức để phân biệt nền kinh tế thị trường
của nước ta so với nền kinh tế thị trường khác phải nói đến mục đích chính trị,
mục tiêu kinh tế - xã hội mà Đảng và nhân dân đã chọn.
Mục tiêu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đó là:
phát triển kinh tế để đạt tới một xã hội giàu mạnh, công bằng, dân chủ văn
minh. Nếu như kinh tế thị trường tự do tư bản chủ nghĩa phục vụ lợi ích của các
nhà tư bản, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa tư bản, bảo vệ và phát triển
chủ nghĩa tư bản thì kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa lấy lợi ích và
phúc lợi toàn dân làm mục tiêu. Phát triển kinh tế thị trường để phát triển lực
lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội nâng cao đời sống
nhân dân. Kinh tế thị trường bản thân nó là nội lực thúc đẩy tiến trình kinh tế
- xã hội. Đến lượt mình, nền kinh tế đó lại có tác dụng kích thích sản xuất,
khuyến khích tinh thần sáng tạo của người lao động, giải phóng sức sản xuất,
thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng một nền văn hóa tiên tiến đậm
đà bản sắc dân tộc, từng bước thực hiện lý tưởng xã hội chủ nghĩa.
Tính định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển
kinh tế - xã hội quy định phát triển kinh tế thị trường ở nước ta nhằm xây dựng là một xã hội: “Dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát
triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư
liệu sản xuất chủ yếu”[2].
Không thể làm cho “dân giàu, nước
mạnh” nếu không có tăng trưởng kinh tế trên cơ sở đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Không thể có tăng trưởng kinh tế nếu không phát triển và quản lý
có hiệu quả nền kinh tế thị trường, chỉ có sức mạnh của nền kinh tế thị trường
hỗn hợp với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế mới là cơ sở cho
sự phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hai là, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta có lực lượng sản xuất tiên tiến, hiện đại.
Trong điều kiện hiện đại, nền kinh tế xã hội chủ nghĩa phải có lực lượng
sản xuất đạt trình độ cao hơn về chất so với tiêu chuẩn đặt ra trong quan niệm
truyền thống về chủ nghĩa xã hội. Trình độ đó không chỉ đo bằng chuẩn “đại công
nghiệp cơ khí” mà còn được đo bằng chuẩn công nghệ cao. Trong nền kinh tế này,
yếu tố ngày càng có vai trò quyết định là khoa học - kỹ thuật và trí tuệ con
người.
C. Mác đã dự báo:
“Theo đà phát triển của đại công nghiệp, việc tạo ra của cải thực sự sẽ trở nên
ít phụ thuộc vào thời gian lao động và số lượng lao động đã chi phí mà chúng
phụ thuộc vào trình độ chung của khoa học và vào tiến bộ kỹ thuật, hay là phụ
thuộc vào việc ứng dụng khoa học ấy vào sản xuất. Hệ thống máy móc tự động sẽ
từng bước thay thế hầu hết lao động trực tiếp. Một khi lao động dưới hình thái
trực tiếp không còn là nguồn gốc của của cải nữa thì nền sản xuất dựa trên giá
trị trao đổi sẽ bị sụp đổ”[3]
Do có sự thay đổi như vậy, quan niệm truyền thống về công nghiệp hoá xã hội
chủ nghĩa, vốn gắn với cơ chế kế hoạch hoá tập trung và bị nguyên lý tự cấp -
tự túc chi phối, đã không còn thích hợp. Cần phải có một cách thức, một mô hình
công nghiệp hóa mới phù hợp có khả năng đáp ứng yêu cầu phát triển mới này.
Trong thời đại ngày nay, công nghiệp hóa không chỉ gắn với các mục tiêu, giải
pháp truyền thống mà phải đạt tới mục tiêu hiện đại, được thực hiện dựa trên
các công cụ và giải pháp hiện đại. Theo đó, khái
niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải có sự vận động, phát triển phù hợp với
điều kiện mới, trong xu hướng hội nhập quốc tế về khoa học – công nghệ và phát triển của cuộc cách mạng công nghiệp
lần thứ Tư. Đây là một trong những nội dung - đặc điểm quan trọng bậc nhất của
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Ba là, đa dạng các hình thức sở hữu, các thành
phần kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nền kinh
tế hỗn hợp, bao gồm nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế cùng tồn
tại trong một thể thống nhất, trong đó, chế độ công hữu ngày càng trở thành nền
tảng vững chắc. Không thể có nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa nếu trong
nó, chế độ công hữu không đóng vai trò nền tảng. Đây là một cấu
trúc đặc thù của nền kinh tế thị trường theo nghĩa:
Không loại trừ các quan hệ sở hữu tư nhân và sở hữu
tư bản chủ nghĩa, thừa nhận tính chất "hỗn hợp" sở hữu như bất cứ nền
kinh tế thị trường nào.
Khu vực kinh tế nhà nước chứ không phải bất cứ lực lượng kinh tế nào khác
đóng vai trò chủ đạo, dẫn dắt sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế.
Theo quan niệm của C. Mác, sở hữu công cộng (chế độ công hữu) là sở hữu
được xã hội hoá và mang tính xã hội trực tiếp. Công hữu phải từng bước trở
thành nền tảng vững chắc là vấn đề có tính nguyên tắc không chỉ đối với nền
kinh tế xã hội chủ nghĩa mà còn đối với nền kinh tế định hướng xã hội chủ
nghĩa. Tuy nhiên, vai trò nền tảng của nó trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa chưa thể đậm nét như trong nền kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Nhưng sự khác biệt ở đây không phải là về bản chất mà là về quy mô, mức độ và
phạm vi tác động.
Chế độ sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dựa
trên hai hình thức cơ bản là sở hữu công cộng (công hữu) và sở hữu tư nhân
(tư hữu). Còn sở hữu hỗn hợp được hình thành trên cơ sở đan xen, hỗn hợp
giữa các hình thức sở hữu và là kết quả của sự hợp tác, liên doanh giữa các chủ
sở hữu khác nhau là nhà nước, tập thể (nhóm) và tư nhân. Công hữu ngày càng trở
thành nền tảng vững chắc, các hình thức sở hữu khác cùng phát triển mạnh mẽ
không hạn chế và đan xen, hỗn hợp với nhau theo luật định cần được xem là chế
độ kinh tế cơ bản của giai đoạn phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta.
Trước đây, theo quan niệm truyền thống, các hình
thức sở hữu là đơn nhất: nhà nước, tập thể hoặc tư nhân. Hiện nay, công hữu
không chỉ bao gồm sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể đơn nhất mà còn bao gồm cả
phần sở hữu của nhà nước và tập thể trong kinh tế hỗn hợp. Cũng như vậy, tư hữu
không chỉ bao gồm sở hữu tư nhân đơn nhất mà còn bao gồm cả phần sở hữu của tư
nhân trong kinh tế hỗn hợp. Trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, hình thức đơn nhất của công hữu có xu hướng
giảm nhưng ý nghĩa nền tảng của công hữu ngày càng được củng cố vững chắc và
được tăng cường ở những lĩnh vực then chốt
Kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo được Hiến pháp
năm 2013 khẳng định: “Nền kinh tế Việt
Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức
sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo”[4].
Kinh tế nhà nước phải nắm giữ vai trò chủ đạo ở một số lĩnh vực then chốt.
Đó là những "đài chỉ huy", là huyết mạch chính của nền kinh tế. Đây
là điều kiện có tính nguyên tắc bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Nó
thể hiện sự khác biệt về bản chất của mô hình kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa so với các mô hình kinh tế thị trường khác.
Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước được thể hiện trước hết và chủ yếu ở
sức mạnh định hướng, hỗ trợ phát triển và điều tiết nền kinh tế chứ không phải
ở quy mô và sự hiện diện của các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước ở tất cả hoặc
hầu hết các ngành, các lĩnh vực.
Đồng thời với việc nhấn mạnh vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước và vai
trò điều tiết của Nhà nước, cần coi trọng vai trò của các thành phần kinh tế
khác. Các thành phần này gắn bó hữu cơ với nhau trong một thể thống nhất, không
tách rời kinh tế nhà nước ở tất cả các giai đoạn phát triển và đều là những
thực thể của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Mọi chủ thể kinh tế với nguồn gốc sở hữu khác nhau
đều được khuyến khích phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh trong khuôn khổ
pháp luật; quyền bình đẳng về cơ hội phát triển và lợi ích chính đáng được pháp
luật bảo vệ.
Bốn là, thực hiện đa dạng các hình thức phân phối
thu nhập.
Trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, thu nhập của cộng đồng dân cư được phân phối theo nhiều
kênh và hình thức khác nhau. Trong đó, phân phối thu nhập theo hiệu quả kinh
doanh và năng suất lao động là chính, các hình thức phân phối thu nhập theo
vốn, tài sản, trí tuệ và phúc lợi xã hội cùng tồn tại và phát triển.
Nghị quyết Hội nghị
Trung ương 5 khóa XII khẳng định: "Thực hiện phân phối
chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp
vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội,
phúc lợi xã hội."[5]
Lao động là nguồn gốc chính tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã
hội, tạo ra sự giàu có của quốc gia. Vì thế, để thực hiện công bằng, phải lấy
phân phối theo hiệu quả kinh doanh và năng suất lao động làm hình thức phân
phối chính. Người lao động có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao phải có thu
nhập cao hơn.
Nhưng mặt khác, phải tạo mọi điều kiện và môi
trường thuận lợi để mọi người đều có thể làm giàu chính đáng bằng lao động của
chính mình. Vì vậy, mở rộng cơ hội
phát triển và đa dạng cơ hội lựa chọn cho mọi người dân để họ từng bước vươn
lên, khẳng định năng lực thông qua cạnh tranh thị trường.
Thu nhập theo vốn, tài sản và trí tuệ bỏ ra kinh
doanh đã được luật pháp thừa nhận. Chỉ trên cơ sở đó mới khuyến khích nhiều
người làm giàu chính đáng. Tăng số người giàu, giảm số người nghèo, không còn
người đói, giảm dần độ chênh lệch giàu nghèo vừa là mục tiêu, vừa là nội dung
trọng yếu của các chính sách phân phối và phân phối lại thu nhập của Nhà nước
trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam.
Trong điều kiện nền kinh tế tri thức và xu hướng phát
triển của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ Tư, phân phối kết quả sản xuất
không chỉ đơn thuần là sản phẩm hàng hóa hữu hình mà còn là hàng hóa vô hình,
dịch vụ, sở hữu trí tuệ… Do vậy, Nhà nước cần xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật đầy đủ, bảo đảm cơ sở cho tất cả các chủ thể kinh tế tự do sáng tạo
và tạo thu nhập theo đúng năng lực, được phân phối hợp pháp những thành quả của
mình, có quyền hưởng thụ những thu nhập chính đáng từ tài sản và trí tuệ, được
quyền huy động các nguồn lực hay phát huy các cơ hội phát triển phục vụ lợi ích
của từng chủ thể. Phân phối cần phải tuân thủ tất yếu kinh tế - kỹ thuật của
từng chủ thể trong các quá trình kinh tế.
Năm là, vai trò của nhà nước trong nền KTTT định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Hai yếu tố quyết định cơ chế vận hành của nền kinh
tế thị trường là nhà nước và thị trường. Do vậy, bàn về tính hiệu quả của nền
kinh tế thị trường, mấu chốt là phải xác định rõ thực trạng của mối quan hệ
này. Đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vấn đề giải
quyết mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường lại càng có ý nghĩa quan trọng.
Nếu không làm rõ được trong cơ chế vận hành của nền kinh tế, nhà nước làm gì,
thị trường làm gì và bằng cách nào thì không thể có một nền kinh tế thị trường
hoạt động hiệu quả.
Khác với nhà nước của nhiều nền kinh tế thị trường trên thế giới, Nhà nước
ở nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của dân, do dân và vì dân
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, có đủ bản lĩnh và khả năng tự đổi
mới để giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong việc phát triển nền kinh tế
thị trường hiện đại. Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ XII Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa Việt
Nam “là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng
bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã
hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước, là nền kinh
tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế, có sự quản lý của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”[6]
Sự khác biệt đó là điều kiện, tiền đề cho sự khác biệt về chất của mô hình
kinh tế thị trường mà nước ta hướng tới so với các mô hình kinh tế thị trường
khác.
Để làm tròn sứ mệnh mà lịch sử và dân tộc Việt Nam giao phó, Đảng và Nhà
nước phải tự đổi mới phương thức lãnh đạo, quản lý đất nước và xã hội trong
điều kiện phát triển kinh tế thị trường, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế dưới tác động của toàn cầu hoá.
Các đặc trưng trên vừa phản ánh tính phổ biến, vừa thể hiện những nét đặc
thù trong mô hình phát triển kinh tế thị trường mà Việt Nam lựa chọn.
Kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam là mô hình chưa có tiền lệ trong lịch sử. Song, với những đặc trưng
ưu việt và mục đích tốt đẹp của nó, đây là một lựa chọn tất yếu, phù hợp với
bối cảnh thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi
toàn thế giới hiện nay. Tuy nhiên, cần nhận thức rõ, quá trình xây dựng và hoàn
thiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là không
đơn giản, đó là quá trình lâu dài và trải qua nhiều giai đoạn, vừa tìm tòi,
phát triển không ngừng trong nhận thức lý luận, vừa phải linh hoạt, sáng tạo
trong thực tiễn, ứng phó tốt trước muôn vàn khó khăn, thách thức, đòi hỏi sự
quyết tâm và đồng lòng của cả dân tộc cũng như sự tích cực, nỗ lực thực hiện
của các địa phương, ban ngành trong cả nước.
TÀI
LIỆU THAM KHẢO
1. C. Mác - Ph. Ăng-ghen:
Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, t 21, tr 168.
2. C. Mác và Ph.
Ăng-ghen: Toàn tập, Sđd, 2000, phần
II, t. 46, tr. 368 - 370.
3. Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hiến
pháp 2013, Điều 51, khoản 1.
4. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung,
phát triển 2011).
5. Đảng Cộng
sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Hà Nội, VPTW,
2016, tr.102.
6. Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 3/6/2017, Hội nghị lần thứ năm Ban
chấp hành Trung ương khóa XII về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa.
[2]. Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển 2011).
[3].
C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Sđd, 2000, phần
II, t. 46, tr. 368 - 370.
[4]. Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hiến pháp 2013, Điều 51, khoản 1.
[5].
Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 3/6/2017, Hội
nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khóa XII về hoàn thiện thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XII, Hà Nội, VPTW, 2016, tr.102.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét