Lý luận Giá trị thặng dư của C. Mác đã khẳng định, chỉ có lao động sống mới tạo ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản, máy móc chỉ là “khí quan”, giúp người lao động có khả năng nối dài đôi bàn tay. Ấy vậy mà vẫn còn những quan điểm phủ nhận luận điểm này của C. Mác. Bài viết làm rõ cơ sở khoa học nhằm góp phần phê phán những quan điểm cho rằng: Máy móc tạo ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản; đồng thời luận chứng học thuyết giá trị thặng dư của C. Mác vẫn nguyên giá trị trong thời đại ngày nay
1.
Những lập luận phi lý của các thế lực thù địch khi cho rằng máy móc tạo ra giá
trị thặng dư cho nhà tư bản
Ngày nay, trước sự phát triển mạnh mẽ
của Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại; ở các nước phát triển trên
thế giới, xuất hiện nhiều nhà máy tự động hóa, rô bốt thông minh tham gia vào
quy trình sản xuất kinh doanh; tạo ra hiệu suất lao động cao, thu được nhiều
lợi nhuận. Trong điều kiện ấy, các thế lực chống phá học thuyết kinh tế của C. Mác
lại trỗi dậy, phê phán, phủ nhận phi lý lý luận hàng hóa sức lao động, học
thuyết giá trị thặng dư của C. Mác. Chúng cho rằng: “C. Mác đã cố tình suy diễn và áp đặt chủ
quan khi gán ghép cho hàng hóa sức lao động cái tính chất đặc biệt - có khả
năng tạo ra một lượng giá trị mới lớn hơn giá trị bản thân nó”[1].
Họ cho rằng sức lao động và tư liệu sản xuất có vai trò như nhau trong
việc tạo ra giá trị và giá trị thặng dư. Thậm chí có quan điểm khẳng định,
“chính máy móc chứ không phải sức lao động đã tạo ra giá trị thặng dư cho nhà
tư bản”[2].
Học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác chỉ đúng khi chủ nghĩa tư bản ở thời kỳ
tiền sử, còn ngày nay - Chủ nghĩa tư bản hiện đại thì lý luận này không còn phù
hợp nữa, máy móc sẽ tạo ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản, nhà tư bản không
bóc lột lột công nhân mà bóc lột máy móc. Họ viện dẫn những xí nghiệp ứng dụng
máy móc hiện đại, ít công nhân thường cho năng suất lao động cao hơn và mang
lại lợi nhuận nhiều hơn so với những xí nghiệp sử dụng nhiều công nhân cùng với
máy móc lạc hậu. Thực chất của luận điệu này là ý chí chủ quan của những kẻ bồi
bút, chỉ thấy cái hình thức, bề ngoài của chủ nghĩa tư bản mà không thấy được
bản chất bên trong của chủ nghĩa tư bản. Họ lý giải hiện tượng này không dựa
trên những cơ sở lý luận và thực tiễn khoa học nhằm mục đích phê phán, phủ nhận
Học thuyết Giá trị thặng dư của C. Mác.
2. Phản
bác tính sai trái của các luận điểm trên và khẳng định Học thuyết giá trị thặng
dư của C. Mác vẫn còn nguyên giá trị.
Nghiên
cứu sự ra đời của chủ nghĩa tư bản, cũng như luận giải nguồn gốc của giá trị
thặng dư, C. Mác đã chỉ rõ, tiền trong lưu thông hàng hóa giản đơn (T-H-T) chỉ
đóng vai trò là vật ngang giá chung thống nhất cho các hàng hóa khác, hàng hóa thông
thường đã kết tinh giá trị trong nó và được trao đổi theo nguyên tắc ngang giá.
Điều đó có nghĩa là tiền và hàng hóa thông thường trong lưu thông hàng hóa giản
đơn không làm tăng thêm giá trị. Để đáp ứng tham vọng làm giàu của mình, nhà tư
bản phải tìm trên thị trường được hàng hóa sức lao động - một loại hàng hóa đặc
biệt mà khi sử dụng nó tạo ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Hàng hóa sức lao
động không chỉ là tiền đề quan trọng ra đời phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
mà còn là chìa khóa giải quyết mâu thuẫn công thức chung của tư bản, là nguồn
gốc duy nhất tạo ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản.
Luận
giải nguồn gốc, bản chất của giá trị thặng dư, C. Mác đã chỉ ra rằng, quá trình
sản xuất tư bản chủ nghĩa là thống nhất giữa quá trình lao động và quá trình làm
tăng giá trị. Trong quá trình sản xuất đó, nhà tư bản tiêu dùng sức lao động đã
mua bằng cách bắt người công nhân lao động để tạo ra hàng hóa cho nhà tư bản. Trong
quá trình lao động, bằng lao động cụ thể của mình, người công nhân chuyển dần giá
trị của máy móc, nguyên nhiên vật liệu vào trong sản phẩm mới; bằng lao động
trừu tượng của mình người công nhân tạo ra lượng giá trị mới không chỉ đủ bù
đắp lại giá trị hàng hóa sức lao động mà còn phần dôi ra ngoài giá trị sức lao
động bị nhà tư bản chiếm đoạt. C.Mác gọi
phần giá trị dôi ra này là giá trị thặng dư (ký hiệu là m). Để chứng minh cho
luận điểm này, C. Mác đã lấy ví dụ ở một nhà máy sản xuất sợi để chứng
minh, Ông đưa ra giả định: Nhà tư bản ứng trước 15 silinh để mua 10 pao bông với
giá là 10 silinh, chi phí hao mòn máy móc là 2 silinh, mua sức lao động là 3
silinh làm việc trong 10 giờ. Năng suất lao động đạt đến trình độ người công
nhân chỉ làm trong ½ ngày đã đủ bù đắp giá trị hàng hóa sức lao động. Sau 5 giờ
đầu, người công nhân tạo ra được 10 pao sợi có giá trị là 15 silinh (10 silinh
bông + 2silinh hao mòn máy móc + 3 silinh mua hàng hóa sức lao động). Nếu sản
xuất dừng ở đây, thì nhà tư bản không thu được gì; nhưng nhà tư bản mua sức lao
động với giá 3 silinh làm việc trong 10 giờ; vì vậy người công nhân tiếp tục phải
làm cho nhà tư bản 5 giờ nữa. Trong 5 giờ tiếp theo, người công nhân cũng tạo
ra 10 pao sợi có giá là 15 silinh. Như vậy, trong ngày lao lao động 10 giờ,
người công nhân đã chuyển 20 pao bông thành 20 pao sợi với giá là 30 silinh, nhưng chi phí tư bản bỏ ra chỉ có 27
silinh, phần dư ra 3 silinh là do công nhân lao động trong 5 giờ tiếp theo
không được trả công, bị nhà tư bản chiếm đoạt, C. Mác cho rằng: “Vậy 27 silinh
đã chuyển hóa thành 30 silinh. Chúng đã đem lại một giá trị thặng dư là 3
silinh. Cuối cùng trò ảo thuật đã được thực hiện. Tiền đã biến thành tư bản”[3]. Từ lý luận trên, chúng ta khẳng định: chính lao động
của người công nhân đã tạo ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản, chứ không phải
là máy móc; nhà tư bản bóc lột công nhân chứ không bóc lột máy móc.
Để làm
rõ quá trình sản xuất giá trị thặng dư trong điều kiện cạnh tranh và ứng dụng
thành tựu khoa học và công nghệ mới vào sản xuất, C. Mác đã phân tích phương
pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối là phương pháp nhà tư bản rút ngắn
thời gian lao động tất yếu của người công nhân trong khi ngày lao động không
đổi, khi đó giá trị thặng dư tăng lên. Thực chất phương pháp này là nhà tư bản
áp dụng tiến bộ khoa học và tối ưu hóa quá trình sản xuất để thu lợi nhuận siệu
ngạch, bóc lột công nhân một cách tinh vi hơn. C. Mác đã lấy ví dụ: “Giả định
rằng một phát minh nào đó cho phép người kéo sợi có thể kéo trong 6 giờ một
lượng bông trước kia phải kéo trong 36 giờ. Với tư cách là một hoạt động sản
xuất có mục đích và có ích thì lao động của người kéo sợi đã tăng sức mạnh của
nó lên gấp 6 lần. Sản phẩm của người đó cũng tăng lên gấp 6 lần: 36 pao sợi chứ
không phải 6 pao nữa. Nhưng 36 pao bông ấy bây giờ cũng chỉ thu hút một thời
gian lao động như 6 pao trước kia. Chúng được gắn thêm một số lao động mới 6
lần ít hơn so với những phương pháp trước kia, vì vậy giá trị mới thêm vào cũng
chỉ bằng một phần sáu so với trước. Mặt khác, trong sản phẩm, trong 36 pao sợi,
bây giờ lại có một giá trị bông gấp 6 lần”[4]. Điều
đó có nghĩa rằng, khi ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại vào sản xuất, năng
suất lao động xã hội tăng lên, số lượng sản phẩm làm ra trong một đơn vị thời
gian tăng lên, lượng giá trị một đơn vị hàng hóa giảm xuống đã làm cho giá trị hàng
hóa sức lao động giảm (đồng nghĩa với việc phần thời gian lao động tất yếu của
người công nhân rút ngắn lại); bởi vì, giá trị hàng hóa sức lao động được biểu
hiện ở toàn bộ hàng hóa, dịch vụ bảo đảm tái sức lao động của người công nhân. Tương ứng với phần
thời gian lao động tất yếu của người công nhân rút ngắn lại là thời gian lao
động thặng dư cho nhà tư bản tăng lên và giá trị thặng dư mà nhà tư bản thu
được cũng tăng lên. C.Mác cho rằng: “Trong
nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, sự phát triển sức sản xuất của lao động nhằm mục
đích rút ngắn phần ngày lao động mà người công nhân phải làm cho bản thân, để
chính bằng cách đó kéo dài cái phần kia của ngày lao động, cái phần mà người
công nhân có thể làm không công cho nhà tư bản”[5]. Như vậy, ngày nay có xuất hiện nhiều nhà máy tự động
hóa, rô bốt thông minh thay thế phần lớn các khâu, quy trình, hoạt động sản
xuất thì sức lao động của công nhân vẫn là nguồn gốc duy nhất tạo ra tạo ra giá
trị thặng dư cho nhà tư bản, chứ không phải máy móc cho dù chúng có hiện đại
đến mấy.
Để tiếp
trục khẳng định rõ nguồn gốc của giá trị thặng dư, C. Mác đã chia tư bản thành
tư bản bất biến và tư bản khả biến. Trong đó, tư bản bất biến là một bộ phận tư
bản dùng để mua tư liệu sản xuất, nó biểu hiện ở nguyên nhiên vật liệu và máy
móc, kho xưởng, ký hiệu là C; bộ phận này về mặt hiện vật tham gia toàn bộ vào
quá trình sản xuất, nhưng giá trị của chúng được chuyển dần vào sản phẩm, không
làm tăng thêm giá trị. Tư bản khả biến là bộ phận tư bản dùng để mua sức lao
động, ký hiệu là V; bộ phần tư bản này khi sử dụng, bằng tính chất hai mặt của
nó không chỉ chuyển giá trị của sản phẩm đầu vào sang sản phẩm mới mà còn tạo
ra một lượng giá trị mới (V+M) bao hàm tiền công nhà tư bản trả cho công nhân
và phần giá trị thặng dư nhà tư bản chiếm đoạt. Như vậy, một lần nữa, khẳng
định: Sức lao động của công nhân (bộ phận tư bản khả biến) là nguồn gốc tạo ra giá
trị thặng dư cho nhà tư bản; máy móc, nguyên nhiên vật liệu (Bộ phận tư bản bất
biến) chỉ chuyển hết một lần hoặc chuyển dần giá trị của nó vào phẩm mới thông
qua lao động cụ thể của người công nhân.
Thực
tiễn ngày nay cho thấy, khoa học công nghệ có bước phát triển, chủ nghĩa tư bản
có điều kiện đề tăng tích lũy tư bản, xuất hiện nhiều nhà máy tự động hóa, máy
móc thay thế con người trong phần lớn các khâu của quá trình sản xuất. Tuy
nhiên, lao động quá khứ được vật hóa trong máy móc ngày càng tăng lên; năng
suất lao động xã hội tăng đồng nghĩa với việc phần giá trị tất yếu dành cho
người công nhân giảm và giá trị thặng dư cho nhà tư bản tăng lên; làm tăng tích
lũy sự giàu có cho nhà tư bản và sự bần cùng hóa người công nhân: “Một bộ phận
rất nhỏ, thậm chí còn chỉ là 1% dân số, nhưng lại chiếm giữ phần nhiều của cải,
tư liệu sản xuất, trấn áp tới 3/4 nguồn kinh tế tài chính, tri thức và những
phương tiện thông tin đại chúng đa phần và do đó chi phối toàn xã hội” và khẳng định: “Đó là hậu quả của một quá trình phát
triển kinh tế-xã hội lấy lợi nhuận làm mục tiêu tối thượng, coi chiếm hữu của
cải và tiêu dùng vật chất ngày càng tăng làm thước đo văn minh, lấy lợi ích cá
nhân làm trụ cột của xã hội. Đó cũng chính là những đặc trưng cốt yếu của
phương thức sản xuất và tiêu dùng tư bản chủ nghĩa. Các cuộc khủng hoảng đang
diễn ra một lần nữa chứng minh tính không bền vững cả về kinh tế, xã hội và môi
trường sinh thái của nó”[6]
Ngày nay, cho dù khoa học và công nghệ trên thế giới ngày
càng phát triển, việc áp dụng các thiết bị máy móc, công nghệ hiện đại vào sản
xuất, từ đó những quan hệ kinh tế - xã hội rất phức tạp, đa chiều nảy sinh,
không ít người lầm tưởng cho rằng máy móc tạo ra giá trị thặng dư cho nhà tư
bản là nhằmbôi nhọ, xuyên tạc, phủ nhận lý luận hàng hóa sức lao động, học
thuyết giá trị thặng dư của C. Mác. Song với thiên tài vạch thời đại của mình, C.
Mác đã luận giải, chứng minh và khẳng định chỉ có lao động sống mới tạo ra giá
trị thặng dư cho nhà tư bản và sản xuất giá trị thặng dư là quy luật kinh tế tuyệt
đối của chủ nghĩa tư bản. Lý luận hàng hóa sức lao động cũng như học thuyết giá
trị thặng dư của C. Mác vẫn luôn là “hòn đá tảng”, là cơ sở để phân tích, xem
xét bản chất kinh tế - chính trị của chủ nghĩa tư bản hiện đại. Bảo vệ học
thuyết kinh tế của C. Mác và nền tảng tư tưởng, lý luận của Đảng ta trong bối
cảnh mới, mỗi chúng ta cần quán triệt và cụ thể hóa chủ trương của Đảng ta là: “Chủ
động phòng ngừa, đấu tranh có hiệu quả với hoạt động chống phá của các thế lực
thù địch, tổ chức phản động, phần tử cơ hội, bất mãn chính trị. Bảo vệ Cương
lĩnh, Điều lệ Đảng, đường lối, chủ trương, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của
Đảng; bảo vệ Hiến pháp và pháp luật; bảo vệ cán bộ, đảng viên về mặt chính trị;
bảo vệ khối đại đoàn kết dân tộc”[7]./.
TÀI LIỆU
THAM KHẢO
1. Chu Văn Cấp
(2017), “Không thể bác bỏ học thuyết kinh tế Mác - Lê-nin”, Tạp chí Quốc
phòng toàn dân điện tử, http://tapchiqptd.vn/ cập nhật 08.00 ngày
05/05/2022
2. Đảng
Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,
tập 1, 2, Nxb CTQGST, Hà Nội năm 2021.
3. Nguyễn Văn Hoan (2021), Phê phán quan điểm sai trái về
kinh tế chính trị học Mác - Lênin ở Học viện Chính trị hiện nay, đề tài khoa
học nhóm cấp Khoa, năm 2021
4. C. Mác & Ph. Ăngghen Toàn tập, tập 23, Nxb
CTQGST, Hà Nội. 2002.
5. Hoàng
Ngọc Hải, Hồ Thanh Thủy (2020), “Học thuyết giá trị thặng dư vẫn còn
nguyên giá trị trong bối cảnh mới”, Tạp chí Cộng sản điện tử, https://www.tapchicongsan.org.vn/, cập nhật
08.00 ngày 05/05/2022
6. Trần
Hoa Phượng (2021), “Phủ nhận lý luận về hàng hóa sức lao động của C. Mác hay
trò xảo biện che đậy bản chất bóc lột giá trị thặng dư của chủ nghĩa tư bản
hiện đại”, Tạp chí Cộng sản, Tháng 5/2021.
7. Nguyễn Phú Trọng
(2022), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb CTQGST, Hà Nội, 2022.
[1]
Nguyễn Văn Hoan (2021), Phê phán quan điểm sai trái về kinh tế chính trị học Mác - Lênin ở Học
viện Chính trị hiện nay, đề tài khoa học nhóm cấp Khoa, năm 2021, tr.21
[2] Sđd,
tr.22
[3] C.Mác & Ph. Ăngghen toàn tập, tập 23, Nxb CTQGST,
Hà Nội. 2002, tr.221.
[4] C.
Mác và Ph. Ăng-ghen toàn tập, tập 23, Nxb
CTQGST, Hà Nội. 2002, tr.333.
[5] C. Mác và Ph. Ăng-ghen
toàn tập, tập 23, Nxb CTQGST, Hà Nội. 2002, tr.518.
[6] Nguyễn Phú Trọng (2022), Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb
CTQGST, Hà Nội, 2022, tr.17, 20.
[7]
Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII, tập 2, Nxb CTQGST, Hà Nội. 2021, tr. 244, 245.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét