Trong những năm gần
đây, các thế lực thù địch đang tập trung chống phá, tuyên truyền các quan điểm
sai trái, thù địch nhằm hướng tới mục tiêu làm chệch định hướng xã hội chủ
nghĩa (XHCN) của nền kinh tế thị trường (KTTT). Vấn đề nhận
thức đúng đắn quan điểm, đường lối chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật
Nhà nước về nền KTTT định hướng XHCN ở việt nam hiện nay có ý nghĩa hết sức
quan trọng. Bài viết tập trung phân tích, làm rõ mô hình KTTT tự do và những
khuyết tật của nó mà chúng đang ca ngợi, đồng thời cũng cho thấy tính ưu việt
của nền KTTT định hướng XHCN mà
Việt Nam đang thực hiện.
1. Chủ thuyết về mô hình kinh tế
thị trường tự do và những khuyết tật của nó
Kinh tế thị trường trong
khuôn khổ CNTB chủ yếu phát triển theo mô hình thị trường tự do, được thực hiện
ở hầu hết các nền kinh tế tư bản chủ nghĩa ở Tây Âu và Bắc Mỹ. Mô hình này đề
cao vai trò của chế độ sở hữu tư nhân, của tự do cá nhân và cạnh tranh tự do.
Trong mô hình KTTT tự do, sự can thiệp điều tiết của nhà nước vào các
quá trình kinh tế được hạn chế ở mức thấp. Quá trình phát triển kinh tế chủ yếu
do khu vực tư nhân vận hành dưới sự điều tiết của “bàn tay vô hình” (tức cơ chế
cạnh tranh tự do). Đây là lý thuyết do nhà kinh tế học Adam Smith đưa ra từ năm 1776. Ông cho rằng, trong
nền KTTT tự do, mỗi cá nhân theo đuổi một mối quan tâm và xu hướng
lợi ích riêng cho cá nhân mình, và chính các hành động của những cá nhân này
lại có xu hướng thúc đẩy nhiều hơn và củng cố lợi ích cho toàn cộng đồng thông
qua một “bàn tay vô hình”. Ông biện luận rằng, mỗi một cá nhân đều muốn thu lợi
lớn nhất cho mình sẽ làm tối đa lợi ích của cả cộng đồng, điều này giống như
việc cộng toàn bộ lợi ích của từng cá nhân lại.
Trong KTTT tự
do thì chức năng chính của nhà nước là bảo vệ chế độ sở hữu tư nhân và các
quyền tự do cá nhân, bảo đảm ổn định vĩ mô, tạo điều kiện để kinh tế tư nhân và
cơ chế thị trường tự do vận hành thuận lợi nhất. Sự tham gia của nhà nước vào
quá trình phân phối lại, vào hệ thống phúc lợi xã hội nhằm giảm tình trạng bất
bình đẳng, tạo lập công bằng xã hội, ngăn chặn và xử lý các thất bại thị trường
tuy vẫn được coi trọng nhưng không nhiều như ở các mô hình khác.
Người cổ vũ nhiệt
thành cho quan điểm tự do hóa nền kinh tế một cách tối đa là nữ Thủ tướng Anh
Margaret Thatcher. Vào những năm 80 của thế kỷ trước, bà đã đưa ra chủ trương
loại bỏ một nhà nước vì phúc lợi xã hội, tức là đưa nền kinh tế vào quỹ đạo của
một chủ nghĩa tự do mới và mang màu sắc bảo thủ của thế kỷ 19: Thị trường nhiều
hơn, nhà nước ít can thiệp hơn…
Hậu quả là mô hình KTTT
tự do này gây ra những tác động nghiêm trọng như tình trạng, khủng hoảng chu kỳ, sự suy thoái kinh tế cả trong quá khứ và
hiện nay đã làm phơi bày mặt trái của KTTT tự do, cả về sự đầu cơ quá mức, về
thất nghiệp, chênh lệch khoảng cách giàu-nghèo và những bất công xã hội, bất bình đẳng xã hội và tỷ lệ người
nghèo tăng, chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khỏe và giáo dục giảm, các thị
trường tài chính quốc tế trở nên bất ổn hơn...
Thậm chí, tại nước Mỹ, nơi có nền kinh tế
thị trường TBCN phát triển nhất thế giới, thì cựu Tổng thống Mỹ Barack Obama đã
phải thừa nhận: “Cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ năm 2008 cho thấy đã qua rồi
thời kỳ nước Mỹ hành động một mình mà không cần phải lắng nghe ai”. Cũng thời
điểm này, lãnh đạo nhiều nước có KTTT phát triển khác, như: Anh, Pháp, Đức,
Italy… cũng lên tiếng phê phán những sự ngây thơ, tin tuyệt đối vào khả năng tự
điều chỉnh của KTTT tự do. Chính trị gia Bernie Sanders của Đảng Dân chủ, trong
cuộc chạy đua ứng viên tranh cử Tổng thống Mỹ năm 2016 cho rằng: “Mô hình KTTT
Mỹ hiện hành không thể giải quyết được triệt để những vấn đề của nước Mỹ, trước
hết liên quan đến an sinh xã hội, giáo dục, y tế và bất công về giàu nghèo…”.
Thực tế cho thấy, các
cuộc khủng hoảng kinh tế-xã hội, khủng hoảng năng lượng, lương thực, các vấn đề
nóng bỏng về biến đổi khí hậu, mất đa dạng sinh học, ô nhiễm môi trường, an
ninh phi truyền thống và dịch bệnh… đã và đang diễn ra dày đặc hơn chứng minh
tính không bền vững cả về kinh tế, xã hội và môi trường sinh thái của thế giới
hiện hành nói chung, của KTTT tự do của CNTB nói riêng.
Thả cho thị trường tự
do, tự điều tiết, thiếu công cụ điều tiết phù hợp cũng dễ gây ra khủng hoảng
kinh tế và khi có khủng hoảng thì rất khó giải quyết. Việc quá đề cao tự do cá
nhân trong khi tính tự giác, ý thức của cá nhân chưa tốt sẽ tạo cơ hội cho sự
ích kỷ cá nhân, ngăn cản những hành động chung của cộng đồng, nhất là trong
những tình huống ngặt nghèo. Ví như dịch Covid-19 đã cho thấy những bất ổn
trong cách thức vận hành xã hội phương Tây khi đối phó với dịch bệnh, thảm họa.
Các cuộc khủng hoảng kinh tế, sự bất bình đẳng xã hội làm cho những nhà lãnh
đạo cổ vũ một cách cực đoan cho KTTT tự do tại Mỹ và châu Âu vỡ mộng.
Và hiện nay, các nước đều nhìn nhận ra vai trò thiết yếu của nhà nước trong
việc điều hành nền kinh tế. Do
đó, chỉ có những ai thiếu tầm nhìn, hoặc cố tình ca ngợi một chiều CNTB.
Tuy nhiên, KTTT không
phát triển theo một phương án duy nhất là phát triển thành kinh tế TBCN, cũng
không theo một mô hình đơn nhất là thị trường tự do. Chẳng hạn như mô
hình KTTT- xã hội. Mô hình này được thực hiện thành công ở khá nhiều nước
Tây - Bắc Âu, điển hình là Đức (quê hương của mô hình KTTT- xã hội), Thụy
Điển, Na Uy và Phần Lan. Xét theo tính chất đặc trưng, mô hình này còn có mặt ở
một số nước khác, như: Đan Mạch, Hà Lan, Pháp, Bỉ... với những mức độ khác nhau.
Và vào những thập niên cuối cùng của thế kỷ XX xuất hiện mô
hình KTTT định hướng XHCN. Loại mô hình KTTT này đang được
thực thi chỉ ở hai nước (Việt Nam - KTTT định hướng XHCN; Trung Quốc -
KTTT XHCN) với thời gian khoảng 30-40 năm trở lại đây. Kết quả thực tế của
mô hình KTTT định hướng XHCN đã chứng tỏ đây là mô hình có sức sống mạnh mẽ và
có triển vọng lịch sử to lớn. Sự ra đời của mô hình này gắn liền với sự sụp đổ
của mô hình kinh tế tập trung bao cấp, vốn phủ nhận vai trò
của KTTT trong quá trình phát triển ở các nước nghèo, lạc hậu tiến
lên CNXH. Mô hình này đã chứng minh được tính hiệu quả, đồng thời khẳng định
tính tất yếu và phổ biến của KTTT với tư cách là một giai đoạn bắt
buộc trong lịch sử phát triển của mọi nền kinh tế. Mô hình KTTT định
hướng XHCN vẫn đang trong quá trình thử nghiệm, định hình cấu trúc và về bản
chất. Bản thân mô hình xây dựng KTTT của hai nước XHCN là Việt Nam và
Trung Quốc cũng khác nhau.
Thực tiễn đã xác nhận
những phương án và mô hình phát triển KTTT khác nhau mang tính đặc thù, phụ
thuộc vào những điều kiện xác định, hoàn cảnh phát triển cụ thể của quốc gia - dân
tộc. Một quốc gia đi sau không nhất thiết, và cũng không thể vận dụng cứng nhắc
các nguyên lý; cũng không nhất thiết phải rập khuôn các mô hình KTTT có sẵn ở
đâu đó, dù là mô hình hiệu quả, để giải quyết các vấn đề phát triển mang nhiều
nét đặc thù của mình.
2. Mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
của Việt Nam
Ở Việt Nam, mặc dù đã có quan điểm manh nha về KTTT từ Đại hội VI khi xác
định xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, tuy nhiên phải đến Đại hội
IX, thuật ngữ “phát triển KTTT định hướng XHCN” mới chính thức được sử dụng
trong Văn kiện của Đảng. Đại hội Đảng XI đã đưa vào cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kì quá độ lên CNXH (Bổ sung, phát triển năm 2011) quan điểm về
xây dựng nền KTTT định hướng XHCN: “Phát triển KTTT định hướng XHCN với nhiều
hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và
hình thức phân phối”1, “Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh
tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với
kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc
dân”1, “Các yếu tố thị trường được tạo lập đồng bộ, các loại thị
trường từng bước được xây dựng, phát triển, vừa tuân theo quy luật của kinh tế
thị trường, vừa bảo đảm tính định hướng XHCN”1.
Tổng kết thực tiễn phát triển KTTT ở nước ta, tại Đại hội XI, Đảng ta đã
thống nhất nhận thức về nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam: “Đó là nền KTTT hiện
đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN, do Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh; có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong
đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan
trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp
tác và cạnh tranh theo pháp luật; thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy
động và phân bổ các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức
sản xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bố theo chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch phù hợp với cơ chế thị trường. Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng
và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch
và lành mạnh; sử dụng các công cụ, chính sách và các nguồn lực của Nhà nước để
định hướng và điều tiết kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi
trường; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách
phát triển. Phát huy vai trò của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội”2.
Mô hình KTTT định hướng XHCN không phải là sự gán ghép chủ quan giữa KTTT
và CNXH, mà là sự nắm bắt và vận dụng xu thế vận động khách quan của kinh tế
thị trường trong thời đại ngày nay.
Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở nhận thức tính quy luật phát triển của
thời đại và sự khái quát, đúc rút kinh nghiệm phát triển KTTT thế giới, đặc
biệt là từ thực tiễn xây dựng CNXH ở Việt Nam để đưa ra chủ trương phát triển
nền KTTT định hướng XHCN, nhằm sử dụng KTTT để thực hiện mục tiêu từng bước quá
độ lên CNXH. Đây là một kiểu KTTT mới trong lịch sử phát triển của KTTT. Nếu
nói KTTT là “cái phổ biến”, thì KTTT định hướng XHCN là “cái đặc thù” của Việt
Nam, phù hợp với điều kiện và đặc điểm cụ thể của Việt Nam. Từ quan điểm của
Đảng CSVN có thể hiểu, tính đặc thù của KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam được
thể hiện ở những điểm sau:
Thứ nhất, đó là mô hình kinh tế thị trường hỗn hợp, vừa vận hành
theo cơ chế thị trường, vừa có sự điều tiết của nhà nước.
Nền KTTT ở Việt Nam không phải là cái khác biệt mà đó vẫn là “nền kinh tế
vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật khách quan của kinh tế thị trường”
như quy luật tự do cạnh tranh, quy luật cung cầu, quy luật giá trị; thực hiện
tự do hoá thương mại,...
Các nguyên tắc, thông lệ quốc tế trong quản lý và điều hành kinh tế được
tuân thủ và vận dụng một cách hợp lý, linh hoạt. “Thị trường đóng vai trò chủ
yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển; là động lực
chủ yếu để giải phóng sức sản xuất”3.
Thị trường cũng chính là cơ chế chủ yếu thực hiện phân phối các thành quả
của tăng trưởng kinh tế, trong đó thu nhập của mỗi người được hình thành trên
cơ sở và phù hợp với kết quả lao động cũng như mức đóng góp về các nguồn lực
trong quá trình tạo ra của cải xã hội.
Tuy nhiên, nền KTTT đó không phải là KTTT tự do mà có sự điều tiết, quản
lý của nhà nước XHCN Việt Nam, bảo đảm định hướng XHCN nền kinh tế phù hợp với
từng giai đoạn phát triển của đất nước trên nguyên tắc tuân thủ và tôn trọng
các nguyên tắc của thị trường.
Nhà nước quản lý, điều hành nền kinh tế bằng chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch, chính sách, pháp luật, và bằng cả sức mạnh vật chất của lực lượng kinh
tế nhà nước; thực hiện sự điều tiết ở tầm vĩ mô, “định hướng, xây dựng và hoàn
thiện thể chế kinh tế; tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch”
bảo đảm cho thị trường phát triển lành mạnh, tuân thủ các quy luật của KTTT,
tương thích với thông lệ của các nước; “sử dụng các công cụ, chính sách và các
nguồn lực của Nhà nước để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản
xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong
từng bước, từng chính sách phát triển”3.
Thông qua những chính sách kinh tế, những biện pháp tài chính cần thiết,
nhà nước phát huy cao độ những mặt tích cực, những ưu thế của nền KTTT, hạn chế
và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, tạo điều kiện cho thị trường
phát triển mạnh mẽ hơn và lành mạnh hơn, bảo vệ lợi ích hợp pháp của nhân dân.
Thứ hai, là mô hình kinh tế thị trường với đa dạng các hình thức
sở hữu và đa dạng các thành phần kinh tế; đất đai thuộc sở hữu toàn dân.
Kinh tế thị trường ở Việt Nam “có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành
phần kinh tế”. Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của
nền kinh tế quốc dân, “cùng bình đẳng, hợp tác, cạnh tranh cùng phát triển”,
trong đó “kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực
quan trọng của nền kinh tế”.
“Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể cùng với kinh tế tư nhân là nòng cốt
để phát triển một nền kinh tế độc lập, tự chủ”3. Các thành phần kinh
tế đều hoạt động theo cơ chế thị trường nhưng theo định hướng chung và khuôn
khổ pháp luật của nhà nước XHCN.
Sự lựa chọn đa dạng các hình thức sở hữu là phù hợp với trình độ phát
triển chưa đồng đều của lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay nhằm khai thác
tối đa thế mạnh của mọi nguồn lực kinh tế cho mục tiêu tăng trưởng.
Nhà nước coi trọng và tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát triển
tự do, bình đẳng, “thực hiện nhất quán một chế độ pháp lý kinh doanh cho các
doanh nghiệp, không phân biệt hình thức sở hữu, thành phần kinh tế”3.
Trong đó, kinh tế nhà nước phải được củng cố và phát
triển ở các vị trí then chốt của nền kinh tế, ở lĩnh vực an ninh quốc phòng, ở
các lĩnh vực dịch vụ xã hội cần thiết... mà các thành phần kinh tế khác không
có điều kiện hoặc không muốn đầu tư.
Kinh tế nhà nước là công cụ để Nhà nước thực hiện vai trò điều tiết vĩ mô
và định hướng XHCN nền kinh tế, đảm bảo các cân đối lớn cho nền kinh tế, kiểm
soát các nguồn tài nguyên chiến lược, phát triển các kết cấu hạ tầng và
dịch vụ công có vốn đầu tư lớn, luân chuyển chậm, lợi nhuận không cao, rất cần
thiết cho nền kinh tế - xã hội nhưng khu vực tư nhân không muốn đảm nhận;...
Kinh tế tư nhân là động lực quan trọng của nền kinh tế và sẽ được tạo các
điều kiện phát triển, nhằm khai thác mọi tiềm năng, thế mạnh của thành phần
kinh tế này cho thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, nhà nước cũng thực
hiện quản lý, định hướng thành phần kinh tế này theo những mục tiêu chung của
đất nước, đảm bảo hài hoà lợi ích doanh nghiệp và lợi ích của dân tộc.
Nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam dựa trên chế độ công hữu về những tư
liệu sản xuất cơ bản, “đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước làm đại diện
chủ sở hữu”, thực hiện “công khai, minh bạch việc quản lý, sử dụng đất công;
tăng cường giám sát, quản lý chặt chẽ, nâng cao hiệu quả sử dụng đất giao cho
các cộng đồng và doanh nghiệp”3. Nhằm phục vụ cho mục đích chung của
toàn dân tộc và của nhân dân, “bảo đảm quyền quản lý, thu lợi của Nhà nước đối
với tài sản công và quyền bình đẳng trong việc tiếp cận, sử dụng tài sản công
của mọi chủ thể trong nền kinh tế”3.
Thứ ba, việc phân phối trong nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở Việt Nam được thực hiện trên nguyên tắc “chủ yếu theo kết quả lao động,
hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và
phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội”3.
Nền KTTT ở nước ta với đa dạng hình thức sở hữu, đa dạng thành phần kinh
tế, đa dạng phương thức sản xuất kinh doanh… do đó cần đa dạng các hình thức
phân phối. Trong nền kinh tế đó, lao động trở thành cơ sở quyết định địa vị và
phúc lợi vật chất của mỗi người.
Vì vậy, phân phối theo lao động và hiệu quả kinh tế là hình thức phân
phối căn bản, là nguyên tắc phân phối chủ yếu và thích hợp nhất, phù hợp với
quan hệ sản xuất của các thành phần kinh tế đang tồn tại ở nước ta.
Bên cạnh đó, hình thức phân phối theo mức đóng góp vốn nhằm huy động tốt
các nguồn lực cho mở rộng, phát triển sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
cũng là rất cần thiết và công bằng đối với các chủ thể kinh tế.
Mặt khác, nền KTTT ở nước ta là nền KTTT theo định hướng XHCN với mục
tiêu không chỉ dừng ở tốc độ tăng trưởng kinh tế mà còn không ngừng nâng
cao đời sống nhân dân, thực hiện tốt các vấn đề an sinh xã hội,… vì vậy, phân
phối lại thông qua hệ thống phúc lợi xã hội cũng là rất đúng đắn và hợp lý nhằm
đảm bảo công bằng, bình đẳng trong xã hội, góp phần thực hiện các mục tiêu của
nhà nước XHCN Việt Nam.
Hơn nữa, phát triển KTTT chúng ta cũng phải chấp nhận sự phân hóa thu
nhập, phân hoá giàu nghèo ngày càng gia tăng, chấp nhận thực tế là sẽ có những
nhóm người yếu thế, không đủ sức cạnh tranh trong vòng xoáy của cơ chế thị
trường, gặp rủi ro...
Vai trò của Chính phủ là phải quan tâm đến vấn đề
đó, hạn chế phân hóa xã hội sâu sắc… bằng cách thực hiện tái phân phối lại thu
nhập xã hội. Đây chính là nét ưu việt của chế độ phân phối trong nền KTTT định
hướng XHCN ở Việt Nam.
Thứ tư, là nền kinh tế thị trường do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo, nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam quản lý, điều tiết vì mục tiêu “dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”3.
Kinh tế thị trường ở Việt Nam là nền KTTT có tổ chức, có sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam và sự quản lý của Nhà nước XHCN Việt Nam, được định
hướng cao về mặt xã hội, có mục đích đảm bảo tối đa lợi ích của đại đa số nhân
dân và sự phát triển bền vững của đất nước; tôn trọng và tạo điều kiện cho các
chủ thể kinh tế tự do phát triển đồng thời thực hiện các biện pháp hữu hiệu để
hạn chế những khuyết tật của tính tự phát thị trường.
Nền kinh tế đó chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế XHCN mà nội dung
căn bản là bảo đảm phúc lợi đầy đủ và sự phát triển tự do, toàn diện của mọi
thành viên trong xã hội, vì lợi ích của đại đa số nhân dân, “bảo đảm mọi người
đều được bình đẳng trong tiếp cận các cơ hội và điều kiện phát triển, được tham
gia và hưởng lợi từ quá trình phát triển”3.
Nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam luôn được định hướng theo đuổi mục
tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”; huy động sức mạnh của
mọi thành phần kinh tế cũng như của toàn xã hội cho tăng trưởng kinh tế, từng
bước nâng cao đời sống cho đại bộ phận nhân dân.
Tuy nhiên, việc thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế không phải bằng mọi
giá, nóng vội mà phải được cân nhắc tính toán cho phù hợp với điều kiện đất
nước theo hướng phát triển nhanh, hiệu quả mà bền vững; gắn mục tiêu tăng tưởng
kinh tế với bảo đảm độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, bảo vệ môi trường...
Nói cách khác, nền kinh tế thị trường đó không vì mục tiêu phát triển kinh tế
mà hy sinh lợi ích quốc gia, độc lập dân tộc, huỷ hoại tài nguyên, môi
trường...
Tăng trưởng kinh tế phải gắn với tiến bộ, công bằng xã hội trong từng
bước, từng chính sách phát triển; Công bằng phải gắn với bình đẳng xã hội, công
bằng không chỉ dừng ở phân phối lợi ích công bằng mà phải là công bằng về cơ
hội phát triển - bảo đảm cho mọi thành viên trong cộng đồng đều có cơ hội như
nhau để phát triển, đều được thụ hưởng lợi ích chính đáng, công bằng từ những
kết quả lao động và cống hiến xã hội của mình, đồng thời có trách nhiệm đóng
góp vào sự phát triển thịnh vượng chung của dân tộc;... Đây chính là tính nhân
văn, ưu việt riêng có của nền KTTT định hướng XHCN Việt Nam.
Thứ năm, là“nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế”3.
Đặc trưng này thể hiện nền KTTT mà nước ta xây dựng không phải là cái
khác lạ so với kinh tế thị trường ở các nước, mà cũng là một bộ phận hữu cơ của
nền KTTT thế giới, “kế thừa có chọn lọc những thành tựu phát triển KTTT của
nhân loại”, “hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách và các yếu tố thị trường,
các loại thị trường đầy đủ, đồng bộ, vận hành thông suốt, gắn kết chặt chẽ với
các nền kinh tế trên thế giới”3, tuân thủ các nguyên tắc, quy ước,
hiệp định, điều lệ, chuẩn mực chung của thế giới để phát triển, thực hiện tự do
hóa trên phạm vi quốc tế trong các lĩnh vực hợp tác thương mại, đầu tư, tài
chính, dịch vụ, lao động, việc làm, tham gia vào chuỗi giá trị và mạng sản xuất
toàn cầu; thực hiện chuyển giao các thành tựu, phát minh, sáng chế khoa học
công nghệ hiện đại với các quốc gia, tận dụng tốt những thời cơ, vận hội, phát
huy tối đa các nguồn lực trong và ngoài nước cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế,
đồng thời có những biện pháp gia tăng khả năng dự phòng của nền kinh tế, ứng
phó tốt với những rủi ro, thách thức từ bên ngoài của tiến trình hội nhập.
Như vậy, cả lý luận và thực tiễn về nền KTTT định hướng XHCN của
Việt Nam đều cho thấy, xây dựng mô hình KTTT định hướng XHCN là kiến tạo một
kiểu xã hội mới về chất, hoàn toàn không hề đơn giản, dễ dàng. Nền KTTT định
hướng XHCN của Việt Nam sẽ được hoàn thiện trong một quá trình dài và việc văn
kiện Đại hội XIII của Đảng xác định “bảo đảm định hướng XHCN phù hợp với từng
giai đoạn phát triển của đất nước” là cần thiết, tạo sự linh hoạt và vận dụng
hiệu quả nguyên tắc “dĩ bất biến ứng vạn biến” trong chỉ đạo, điều hành thực
tiễn của Đảng trước mọi biến động nhanh, khó lường của thế giới.
Xây
dựng nền KTTT định hướng XHCN là sự đột phá về lý luận và xây dựng chủ nghĩa xã
hội của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự đột phá đó được tạo nên bởi sự đổi mới và
sáng tạo liên tục trong tư duy lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở
kiên định, vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ
Chí Minh, tiếp thu có chọn lọc những thành tựu mới nhất về lý luận của thế giới
và không ngừng tổng kết thực tiễn. Có thể thấy việc xây dựng nền KTTT định hướng XHCN là hoàn
toàn có cơ sở khoa học, phù hợp với thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở nước ta.
Từ những vấn đề lý luận và thực tiễn về nền KTTT định hướng
XHCN mà chúng ta xây dựng, đây là vấn đề có tính nền tảng mà mỗi cán bộ, đảng
viên và nhân dân cần hiểu đúng, để xây chắc niềm tin vào chủ trương xây dựng
nền KTTT định hướng XHCN. Đồng thời kiên quyết đấu tranh phê phán, phản bác các
quan điểm sai trái của các thế lực thù địch cho rằng: Không thể có KTTT định
hướng XHCN; rằng chủ nghĩa xã hội và KTTT không thể dung hợp với nhau, nếu đem
“ghép” định hướng XHCN vào KTTT thì chẳng khác nào “trộn dầu vào nước”, tạo ra
một “thân hình dị dạng”…
Tài liệu tham khảo
1. Đảng Công sản Việt
Nam, (2011), “Văn
kiện Đại hội toàn quốc lần thứ XI”, Nxb Chính trị quốc
gia, tr.73, 73-74, 74.
2. Đảng Công sản Việt
Nam, (2016), “Văn
kiện Đại hội toàn quốc lần thứ XII”, Nxb Chính trị quốc
gia, tr.25-26.
3. Nghị quyết số
11-NQ/TW, Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII,
http://www.dangcongsan.vn, ngày 9-6-2017.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét