Hồ Hải tên thật là Hồ Văn Hải, sinh
năm 1959 tại Quy Nhơn, Bình Định. Thời đi học, Hồ Hải là một học trò ngu dốt và
thường hay ganh tị, nói xấu bạn học. Hắn học đi học laị mãi đến năm 1983 mới
thi vào được đại học Y Dược TP.HCM. Lúc này hắn đã 24 tuổi, trong khi ở tuổi
này người ta đã tốt nghiệp đại học và ra trường làm việc được mấy năm. Hắn học
khoa Phụ sản và bị mọi người chế nhạo vì sự ngu dốt và tính “dê xồm”, một thằng
đàn ông 24 tuổi luôn chành chọe và lợi dụng với các em sinh viên 18 tuổi trong
sáng.
Thứ Hai, 21 tháng 11, 2016
Thứ Hai, 14 tháng 11, 2016
Bảo vệ bí mật quân sự - đòi hỏi tất yếu để bảo vệ Tổ quốc
QĐND
- Xây dựng quân đội, bảo vệ Tổ quốc đòi hỏi phải có những nguyên tắc nghiêm
ngặt để bảo vệ bí mật quân sự, bí mật quốc gia. Đó là vấn đề có tính quy luật
không chỉ ở Việt Nam mà ở mọi quốc gia trên thế giới. Thế nhưng, thời gian gần
đây, có những người vì nhiều lý do đã có những kiến nghị thể hiện tư duy đơn
giản, đi ngược với những nguyên tắc ấy.
SỰ XUYÊN TẠC TRẮNG TRỢN KHI CHO RẰNG “ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM ĐANG LÀ NHÓM LỢI ÍCH LỚN NHẤT”
Trong suốt quá trình chống phá cách mạng bằng
chiến lược “Diễn biến hòa bình”, các thế lực thù địch luôn đặt trọng tâm và
chĩa mũi nhọn vào chống phá Đảng và chế độ, với mọi thủ đoạn tinh vi, thâm độc.
Gần đây, họ rêu rao rằng: “Đảng Cộng sản Việt Nam đang là nhóm lợi ích lớn
nhất”. Đây là luận điệu hoàn toàn vu khống, xuyên tạc trắng trợn bản chất, mục
đích hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam, cần kiên quyết đấu tranh, bác bỏ.
Thứ Tư, 9 tháng 11, 2016
V.I.Lê nin phát triển quan điểm của C.Mác về sự ra đời chủ nghĩa tư bản trong công nghiệp ở Nga?
C.Mác cho rằng: từ sản xuất phong kiến chuyển lên sản xuất
tư bản chủ nghĩa có thể bằng hai con đường:
Người sản xuất trở thành những
thương nhân hoặc thương nhân trực tiếp mở những công xưởng kiểu tư bản chủ
nghĩa (đây là con đường chủ yếu ở Tây Âu).
Phát triển quan điểm của C.Mác, V.I.Lê nin cho rằng: Con
đường hình thành chủ nghĩa tư bản trong công nghiệp ở nước Nga khác với Tây Âu ở
chỗ: Nền công nghiệp ở nông thôn có ý nghĩa quan trọng hơn, nó đã phát triển dưới
dạng rất nhiều nghề thủ công của người nông dân.
Lý luận của V.I.Lênin về chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước?
Xây dựng học thuyết về chủ nghĩa đế quốc, V.I.Lênin không
những chỉ rõ bản chất kinh tế, bản chất chính trị và địa vị lịch sử của chủ
nghĩa tư bản độc quyền, mà còn dự báo sự hình thành, bản chất của chủ nghĩa tư
bản độc quyền nhà nước: V.I.Lênin vạch rõ tính qui luật của việc chuyển từ chủ
nghĩa tư bản độc quyền chuyển thành chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước.
Lý luận của V.I. Lênin về chủ nghĩa tư bản độc quyền?
C. Mác và Ăngghen đã dự báo rằng: cạnh
tranh tự do sinh ra tích tụ và tập trung sản xuất, tập trung sản xuất phát triển
đến một mức độ nào đó sẽ dẫn đến độc quyến. V.I.Lênin vận dụng sáng tạo những
nguyên lý của chủ nghĩa Mác, ông đã chứng minh rằng chủ nghĩa tư bản đã bước
sang giai đoạn mới là chủ nghĩa tư bản độc quyền.
Quan điểm của Sismondi, C.Mác và J.M.Keynes về nguyên nhân khủng kinh tế dưới chủ nghĩa tư bản?
Khủng hoảng kinh tế dưới chủ nghĩa tư bản nó là một khuyết
tật không mong muốn, nó mang lại hậu quả nặng nề cho kinh tế - xã hội. Vì vậy,
các nhà kinh tế học luôn tìm tòi, nghiên cứu để tìm ra nguyên nhân nhằm khắc phục
khuyết tật đó, tiêu biểu như: Sismondi, C. Mác và J.M. Keynes
Sự phát triển về lý luận địa tô của W. Petty, A.Smith, D. Ricacdo và của C.Mác?
Địa tô là một trong những vấn đề quan trọng trong học
thuyết kinh tế. Chủ nghĩa trọng thương thế kỷ XV – XVII đã bỏ qua vấn đề này. Từ
khi ra đời kinh tế chính trị cổ điển Anh, nó đã được W. Petty, A. Smith, D.
Ricardo quan tâm nghiên cứu. Đến cuối thế kỷ XIX, C. Mác là người phát triển và
đưa lý luận này tới đỉnh cao.
Sự khác nhau trong phương pháp nghiên cứu giá trị thặng dư của C. Mác và các nhà kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh?
Mặc dù đã đạt được
những thành tựu nhất định trong nghiên cứu giá trị thặng dư, nhưng những thành
tựu mà các nhà kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh phân tích đó chỉ là những
hình thái cụ của giá trị thặng dư: Lợi nhuận, lợi tức, địa tô.
Sự phê phán và kế thừa của C.Mác về lý thuyết tiền công của các nhà kinh tế chính trị tư sản cổ điển?
Cũng như các lý thuyết kinh tế khác trong kinh tế chính
trị tư sản cổ điển Anh, C. Mác đã phê phán, kế thừa lý thuyết về tiền công trên
các nội dung cơ bản sau
Phê phán:
Các nhà kinh tế học tư sản cổ điển Anh không phân
biệt được lao động và sức lao động, nên đã cho rằng tiền công là giá
cả của lao động, chưa thấy được tiền công là giá cả của sức lao động, W.
Petty đã không biết đến mối quan hệ giữa tiền công và giá trị sức lao động nên
đã cho rằng tiền công tỷ lệ nghịch với giá cả lúa mì (giá trị tư liệu tiêu
dùng). Không biết đến
tính chất lịch sử của tiền công, họ coi tiền công là phạm trù vĩnh viễn, nên đã
cho tiền công là phạm trù đặc trưng cho tất cả các giai đoạn phát triển kinh tế
và cho rằng trong điều kiện chủ nghĩa tư bản chỉ có sự thay đổi về lượng mà
thôi.
Sự phê phán, kế thừa và phát triển học thuyết giá trị - lao động trong Kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh của C.Mác?
Kinh tế chính trị tư sản cổ điển
Anh ra đời vào cuối thế kỷ XVII, các đại biểu chủ yếu là W. Petty; A. Smith và
D. Ricardo. Lần đầu tiên các nhà kinh tế thuộc trường phái này xây dựng hệ
thống phạm trù, qui luật của kinh tế thị trường, trong đó có học thuyết giá trị
- lao động. Học thuyết giá trị - lao động của các ông chứa đựng cả những nhân tố
khoa học và nhân tố tầm thường. Những nhân tố tầm thường và những nhân
tố khoa học đã được C.Mác phê phán và kế thừa cụ thể:
Hoàn cảnh ra đời, đặc điểm phương pháp luận của kinh tế chính trị của C. Mác và Fh. Ănghen?
Chủ nghĩa Mác ra đời trong những năm 40 của thế kỷ XIX,
trên cơ sở những tiền đề về kinh tế - xã hội và tư tưởng như sau:
Một là, tiền đề
kinh tế - xã hội:
Cuối thế kỷ XVIII,
đầu thế kỷ XIX với việc hoàn thành cuộc cách mạng công nghiệp, chủ nghĩa tư bản
đã chiến thắng hoàn toàn chế độ phong kiến và giành được địa vị thống trị trong
xã hội ở hầu hết các nước Châu Âu, mà điển hình là cuộc cách mạng công nghiệp ở
Anh (một nước tư bản chủ nghĩa điển hình). Cũng trong giai đoạn này cuộc cách mạng
phản phong ở Pháp năm 1789 - 1794 đã có ảnh hưởng rộng rãi ở Châu Âu, tư tưởng
tự do, bình đẳng ngày càng có điều kiện phát triển. Giai cấp vô sản được hình
thành và ngày càng lớn mạnh.
Thành tựu và hạn chế trong quan điểm kinh tế của Saint Simon?
Thành tựu:
Một là, quan điểm lịch sử: Ông cho rằng, lịch sử có tính quy
luật, chế độ xã hội này sẽ bị thay thế bởi một chế độ xã hội khác hoàn thiện
hơn. Ông coi lịch sử là một quá trình phát triển liên tục. Động lực phát triển
của xã hội loài người là sự phát triển của lý trí, của khoa học và của sự văn
minh. Song chú ý nhiều đến nhân tố kinh tế như hoạt động của con người trong
nền sản xuất, chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất...
Thành tựu và hạn chế trong Học thuyết kinh tế của R.Owen?
Thành tựu:
Một là, Ông phê phán chủ nghĩa tư bản và đấu tranh chống lại
chủ nghĩa tư bản một cách kiên quyết. Theo R.Owen, người ta sinh ra để hưởng
hạnh phúc, mục đích của nhân loại là hạnh phúc. Nhưng với sự thống trị của lòng
ích kỷ, sự cạnh tranh, tình trạng vô chính phủ trong sản xuất và phân phối đã
bóp méo quan hệ giữa người với người, làm cho người ta không được hưởng hạnh
phúc. Ông cho rằng tư hữu là nguyên nhân của vô vàn tội lỗi mà mọi người lao động
phải gánh chịu, là nguyên nhân gây ra sự thù địch lẫn nhau, sự bịp bợm và tệ mại
dâm... Nguyên nhân trực tiếp của đời sống công nhân giảm sút là do giảm giá lao
động, do áp dụng máy móc làm cho con người thừa ra. Theo ông, chỉ đến xã hội
tương lai, máy móc mới trở thành trợ thủ đắc lực của con người.
Đánh giá của Sismondi về khủng hoảng kinh tế?
Thứ nhất, quan
niệm về khủng hoảng kinh tế:
Sismondi cho rằng, khủng hoảng kinh tế
là tất yếu, nền sản xuất tư bản chủ nghĩa sẽ có sản xuất thừa,
đó là kết quả của mâu thuẫn giữa sản xuất và tiêu dùng. Theo ông, mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa là tiêu
dùng, mà tiêu dùng do thu nhập quyết định, nên để thực hiện giá trị hàng hoá
thì sản xuất phải ăn khớp với thu nhập xã hội, nếu sản xuất vượt quá thu nhập
thì sản phẩm làm ra sẽ không thực hiện được giá trị, đó chính là khủng hoảng
kinh tế. Thực chất khủng hoảng kinh tế là khủng hoảng thừa.
Những nội dung cơ bản về lý thuyết giá trị - lao động của kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh?
Kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh ra đời vào cuối thế
kỷ XVII, tồn tại và phát triển cho đến giữa thế kỷ XIX với các tác giả chủ yếu
như: W. Petty, A. Smith, D. Ricardo. Lần đầu tiên các nhà kinh tế này xây
dựng hệ thống phạm trù, qui luật của kinh tế thị trường. Trong đó
có học thuyết giá trị - lao động gồm:
Nội dung cơ bản trong lý luận về thuế khóa của D. Ricardo?
D. Ricardo đã phát triển lý luận thuế
khóa của A. Smith và có nhiều luận điểm đặc sắc về thuế khóa. Ông chỉ rõ hậu quả
của thuế khoá: Nếu thuế đánh vào tư bản sẽ làm giảm tương ứng quĩ tư bản, chi
phối qui mô các ngành sản xuất. Nếu đánh vào thu nhập sẽ làm giảm tương ứng lượng
tiêu dùng.
So sánh sự giống và khác nhau trong lý luận về tư bản của chủ nghĩa trọng nông và của D.Ricardo?
Sự giống nhau:
Một là, cả trọng nông và D.
Ricardo đều đứng trên quan điểm tự nhiên chủ nghĩa để xem xét về tư bản, chỉ thấy
tư bản dưới hình thái hiện vật, chưa nhìn thấy tư bản là một quan hệ xã hội, gắn
với một quan hệ sản xuất nhất định. Họ coi tư bản là bộ phận của cải được dùng
vào quá trình sản xuất (F.Kêne cho tư bản không phải là bản thân tiền tệ mà là
những tư liệu sản xuất trong nông nghiệp như: nông cụ, súc vật, thóc giống, tư
liệu sinh hoạt cho công nhân nông nghiệp được mua bằng tiền đó và khẳng định tư
bản là vật và tồn tại vĩnh viễn; D.Ricardo coi tư bản là bộ phận của cải trong
nước được dùng vào việc sản xuất, bao gồm thức ăn, đồ mặc, nguyên vật liệu, nhà
xưởng, máy móc...)
Sự kế thừa và phát triển của D.Ricardo trong học thuyết giá trị của A.Smith?
D.Ricardo đã kế thừa những nhân
tố khoa học và gạt bỏ những sai lầm trong học thuyết giá trị của A.
Smith
Kế thừa: Phân biệt rõ
ràng hai thuộc tính của hàng hóa là giá trị trao đổi và giá trị sử dụng,
Ông cho rằng: Tính hữu ích không phải là thước đo giá trị trao đổi mà chỉ là điều
kiện cần thiết cho giá trị trao đổi, nếu một vật không có ích cho ai cả thì nó
sẽ không có giá trị trao đổi. Theo ông, giá trị trao đổi chịu ảnh hưởng của hai
nhân tố: Số lượng lao động cần thiết để sản xuất ra chúng và tính chất hiếm có
của nó.
Lý thuyết thương mại quốc tế của trường phái kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh?
Thứ nhất, lý thuyết lợi
thế tuyệt đối của A. Smith
A. Smith cho
rằng, các quốc gia sẽ có lợi khi tiến hành chuyên môn hóa sản xuất và trao đổi
sản phẩm cho nhau. Khi tiến hành phân công lao động giữa các quốc gia thì
các quốc gia phải dựa trên lợi thế tuyệt đối của mình. Nghĩa là, một quốc gia sẽ
tiến hành tập trung sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng mà khi sản xuất chúng
có hao phí cá biệt của quốc gia mình thấp hơn hao phí trung bình thế giới và sẽ
nhập khẩu những mặt hàng mà khi sản xuất chúng có hao phí cá biệt của quốc gia
mình cao hơn hao phí trung bình thế giới. Lý luận này có nhược điểm là nếu quốc
gia nào không có lợi thế tuyệt đối thì không thể tham gia vào quá trình trao đổi
trên thế giới.
Thành tựu và hạn chế trong lý luận giá trị của D.Ricardo?
* Thành tựu: Ông coi hàng hóa là sản phẩm của lao động. Đã phân biệt rõ hai thuộc
tính của hàng hóa là giá trị sử dụng và giá trị trao đổi, trong đó giá trị sử
dụng không quyết định giá trị hàng hóa. Theo ông giá trị trao đổi của hàng hóa
được quy định bởi lượng lao động chứa đựng trong hàng hóa, lượng lao động đó tỷ
lệ thuận với lao động tạo ra hàng hóa.
Thành tựu và hạn chế trong lý luận địa tô của A.Smith?
Thành tựu:
A.Smith có hai về khái niệm về địa
tô: Một là, địa tô là “khoản khấu trừ thứ nhất vào sản phẩm lao động”, là kết
quả của việc bóc lột người sản xuất trực tiếp; hai là, địa tô là “tiền trả cho
việc sử dụng đất đai”, “phụ thuộc vào mức độ phì nhiêu của đất đai”. Như vậy,
ông đã phát hiện được độc quyền tư hữu ruộng đất là điều kiện chiếm hữu địa tô.
Cả hai luận điểm trên đã phản ánh mối quan hệ giữa giai cấp địa chủ, tư bản
kinh doanh nông nghiệp và công nhân nông nghiệp.
Quan điểm của A. Smith: “Tiền công, lợi nhuận và địa tô là ba nguồn gốc đầu tiên của mọi giá trị trao đổi”?
Luận điểm
của A. Smith về ba nguồn gốc của giá trị hàng hóa là kết quả nghiên
cứu các bộ phận cấu thành giá cả thực tế hay giá trị trao đổi của
hàng hóa. Luận điểm này bao gồm:
Trong nền
sản xuất hàng hóa nhỏ, cả tư liệu sản xuất và sức lao động đều
thuộc về người lao động, nên sản phẩm làm ra thuộc về họ. Khi sản
phẩm được đưa ra trao đổi, người ta phải căn cứ vào lao động đã hao
phí để sản xuất ra nó. Lao động đã hao phí là cơ sở của giá cả
thực tế hay giá trị trao đổi của hàng hóa.
Nội dung cơ bản trong lý thuyết “Bàn tay vô hình” của A.Smith?
Lý thuyết “bàn tay vô hình” của A. Smith thực chất là lý
thuyết về thị trường tự điều tiết. Theo A. Smith, nền kinh tế bình thường là nền kinh tế phát triển trên
cơ sở tự do cạnh tranh, tự do mua bán và trao đổi, đó là nền kinh tế thị trường.
Sự hoạt động của nền kinh tế thị trường chịu sự chi phối bởi “bàn tay vô
hình”. “Bàn tay vô hình” là hệ thống các quy luật kinh tế
khách quan tự phát hoạt động và chi phối hoạt động của con người, là một “trật
tự tự nhiên”.
Tại sao nói phương pháp luận của A. Smith có tính hai mặt?
A.Smith có công trong phát triển phương pháp trừu tượng hóa trong nghiên
cứu kinh tế chính trị, có nhiều đóng góp vào việc xây dựng các phạm trù, qui luật
của kinh tế thị trường. Mặc dù vậy, trong phương pháp luận của ông bị lẫn lộn
giữa hai yếu tố khoa học và tầm thường.
Biểu kinh tế của F.Kêne?
Để phân tích biểu kinh tế, F.Kêne đưa ra các giả định:
Chỉ nghiên cứu tái sản xuất giản
đơn, lấy tư bản hàng hoá làm điểm xuất phát. Không tính đến biến động về giá cả
(giá cả bằng giá trị), không tính đến ngoại thương.
Tái sản xuất là quá trình thực hiện
tổng sản phẩm xã hội cả về hiện vật và giá trị. Tiền trở về điểm xuất phát ban
đầu khi hết một chu kỳ tái sản xuất. Trao đổi tổng sản phẩm xã hội là sự trao đổi
giữa ba giai cấp: Giai cấp sở hữu, giai cấp sản xuất, giai cấp không sản xuất.
Lý luận sản phẩm thuần tuý của trường phái trọng nông?
Lý luận sản
phẩm thuần tuý là lý luận trọng tâm của chủ nghĩa trọng nông. Theo họ, sản phẩm thuần tuý là số chênh lệch giữa tổng sản phẩm và chi phí sản xuất,
số dôi ra ngoài chi phí sản xuất được tạo ra trong nông nghiệp.
Học thuyết về “Trật tự tự nhiên” của chủ nghĩa trọng nông?
Học thuyết về
“Trật tự tự nhiên” là cơ sở lý luận của những người trọng nông chủ
nghĩa, họ dùng học thuyết đó để đi đến những kết luận kinh tế. Họ
nhân danh “trật tự tự nhiên” để chỉ trích chế độ đặc quyền phong
kiến và việc chế định kiểu trọng thương, nhưng lại coi trật tự tư
bản chủ nghĩa là trật tự tự nhiên.
Nội dung cơ bản trong lý thuyết về tiền lương của W.Petty?
W. Petty đã đi sâu nghiên cứu giải quyết vấn đề tiền lương
trên cơ sở lý thuyết giá trị - lao động. Ông coi lao động là hàng hoá, tiền
lương là giá cả tự nhiên của lao động và quy nó thành giá trị những tư liệu
sinh hoạt cần thiết tối thiểu cho công nhân.
Tính khoa học và tầm thường trong luận điểm “Đất là mẹ, lao động là cha của của cải” của W.Petty?
W.Petty là
nhà kinh tế học người Anh. Học thuyết của ông thể hiện tư tưởng của chủ nghĩa
trọng thương và thế giới quan của kinh tế chính trị tư sản cổ điển. Trong
nghiên cứu về giá trị hàng hóa, ông nêu luận điểm "Đất là mẹ,
lao động là cha của của cải".
Những thành tựu và hạn chế trong lý luận giá trị - lao động của W.Petty?
W.Petty đã có những đánh giá, nhận xét đúng đắn về vai trò của lao động trong
việc tạo ra giá trị, tức là nguồn gốc thực sự của của cải. Có thể nói ông
là người đầu tiên đưa ra nguyên lý về giá trị - lao động. Lý luận giá
trị - lao động của W. Petty có những thành tựu và hạn chế :
So sánh hai giai đoạn phát triển và đánh giá thành tựu, hạn chế của chủ nghĩa Trọng thương Anh?
Chủ nghĩa Trọng thương Anh
trải qua hai giai đoạn phát triển. Giai đoạn đầu, từ giữa thế kỷ XV
đến giữa thế kỷ XVI. Giai đoạn sau từ nửa cuối thế kỷ XVI đến giữa
thế kỷ XVII. Nội dung lý luận của hai giai đoạn này có sự giống và khác nhau:
Giống nhau: Đều coi tiền là nội dung căn bản của của cải, là tài sản
thực sự của quốc gia. coi hàng hóa là phương tiện làm tăng thêm khối lượng tiền
tệ.
Cả hai giai đoạn này đều coi trọng thương mại, đặc
biệt là ngoại thương. Đều có chung các quan điểm kinh tế ... (như đã
trình bày trong câu 1)
Khác nhau: Giai đoạn đầu:
Tư tưởng trung tâm của trọng thương là bảng “Cân đối tiền tệ”. “Cân đối
tiền tệ” chính là ngăn chặn không cho tiền ra nước ngoài, cấm xuất
khẩu tiền, vàng và bạc; tăng cường tích trữ tiền, hạn chế nhập
khẩu hàng nước ngoài, lập hàng rào thuế quan cao, giảm lợi tức của
tư bản cho vay, giám sát chặt chẽ thương nhân nước ngoài.
Giai đoạn sau: Nội dung trọng tâm của trọng thương là
"Bảng cân đối thương mại", đây là giai đoạn thật sự của chủ nghĩa
trọng thương. Họ coi trọng cân đối thương mại, không cấm đem tiền ra nước
ngoài, không buộc thương nhân nước ngoài mua hết số tiền có được do
mang hàng hóa vào bán, nhưng hoạt động thương mại phải hướng tới sự cân đối
giữa xuất và nhập.
Giai đoạn này đòi hỏi phát triển nội thương không
hạn chế, mở rộng xuất khẩu, tán thành nhập khẩu hàng hóa nước
ngoài với qui mô lớn; cho tự do lưu thông tiền tệ, không cấm xuất khẩu
vàng và bạc, lên án việc tích trữ tiền; khuyến khích phát triển
công nghiệp chế tạo, nhất là những ngành xuất khẩu với khẩu hiệu:
“bán nhiều, mua ít”, từ đó bản thân vàng tự nó sẽ chạy vào trong
nước, không cần biện pháp hành chính nào cả.
Những thành tựu
và hạn chế của chủ nghĩa trọng thương
Thành tựu:
Là học thuyết kinh tế đầu tiên trong lịch sử, tiến bộ hơn hẳn so
với các tư tưởng kinh tế phong kiến và các thuyết lý tôn giáo còn đang thịnh
hành ở nhiều nước thời bấy giờ. Chủ nghĩa Trọng thương đã đoạn tuyệt
với thời Trung cổ trong việc nhận thức các nhiệm vụ của tư tưởng
kinh tế và các phương pháp để giải quyết tư tưởng đó, nó đã từ bỏ
việc tìm kiếm sự công bằng xã hội, những lời giáo huấn luân lý.
Hệ thống
các quan điểm kinh tế của họ tạo ra những tiền đề lý luận kinh tế
quan trọng cho kinh tế học sau này. Lần đầu tiên đã nghiên cứu về mặt
lý luận những vấn đề của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa,
những vấn đề của chủ nghĩa tư bản; Lần đầu tiên đưa ra quan điểm về sự
giàu có là giá trị, là tiền.
Học thuyết
trọng thương đã nêu quan điểm mục đích hoạt động của nền kinh tế hàng hoá là
lợi nhuận. Họ cho rằng, nhiệm vụ kinh tế của mỗi nước là làm giàu.
Để đạt được mục đích đó họ cho rằng phải thông qua hoạt động thương
nghiệp.
Chủ nghĩa
trọng thương cũng đã thấy được vai trò của nhà nước trong phát triển
kinh tế. Họ cho rằng, các chính sách bảo hộ của nhà nước có tác dụng rút ngắn
sự quá độ từ phương thức sản xuất phong kiến lên phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa. Tư tưởng nhà nước can thiệp vào kinh tế về sau này được kinh tế học
hiện đại kế thừa và phát triển.
Hạn chế:
Chủ nghĩa
trọng thương còn mang tính phiến diện, mới chỉ nghiên cứu quan hệ kinh tế
trong lĩnh vực lưu thông, tuyệt đối hoá vai trò của lưu thông mà không quan tâm
đến sản xuất, phân phối và tiêu dùng.
Những luận
điểm của chủ nghĩa trọng thương mới dừng ở sự phân tích những hiện tượng
bề ngoài của quá trình lưu thông và mới đưa ra những lời khuyên về chính
sách kinh tế, rất ít tính lý luận. Họ chưa thoát khỏi giới hạn của lĩnh
vực lưu thông, chưa thấy được sự phát triển của chủ nghĩa tư bản
trong công nghiệp.
Họ chưa biết
đến các quy luật kinh tế. Theo họ, người này được thì người kia mất, dân tộc
này làm giàu thì dân tộc khác phải hy sinh. Trọng thương còn quá coi trọng
tiền tệ (vàng, bạc), chưa hiểu hết nguồn gốc, bản chất, chức năng của
tiền tệ và qui luật lưu thông tiền tệ.
Nội dung cơ bản của chủ nghĩa Trọng thương Tây Âu?
Chủ nghĩa trọng thương ra
đời và tồn tại vào giữa thế kỷ XV đến giữa thế kỷ XVII và chiếm
vị trí quan trọng trong đời sống kinh tế ở các nước Tây Âu giai đoạn
này. Nó là hình thái đầu tiên của hệ tư tưởng kinh tế tư sản trong
giai đoạn tích lũy nguyên thủy tư bản chủ nghĩa nhằm chống lại tư
tưởng kinh tế phong kiến và bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản
thương nghiệp. Tư tưởng cơ bản của họ được thể hiện trên những nội
dung cơ bản sau:
Thứ Ba, 8 tháng 11, 2016
Sản xuất quân sự và sản xuất dân sự của một quốc gia có mối quan hệ với nhau như thế nào?
Trả
lời:
Sản xuất quân sự và sản xuất dân sự đều là các bộ phận hợp
thành nền sản xuất vật chất của xã hội. Giữa sản xuất quân sự và sản xuất dân
sự có mối quan hệ gắn bó, tác động lẫn nhau, biểu hiện cụ thể như sau:
- Trong điều kiện các nguồn vật chất, kỹ thuật, công nghệ,
tài chính, nhân lực của nền sản xuất xã hội có hạn, nếu mở rộng quy mô sản xuất
quân sự sẽ dẫn đến thu hẹp quy mô sản xuất dân sự và ngược lại, nếu quy mô sản
xuất quân sự được giới hạn ở mức độ hợp lý sẽ tạo điều kiện thuận lợi để mở
rộng quy mô sản xuất dân sự và cải thiện đời sống nhân dân. Bởi vì, trong quá
trình tái sản xuất xã hội, việc bù đắp những chi phí sản xuất quân sự phải dựa
vào sự đóng góp của các ngành sản xuất dân sự dưới dạng ngân sách nhà nước chi
cho quốc phòng - an ninh, mà nguồn gốc của nguồn chi này là phần lao động thặng
dư do sản xuất dân sự tạo ra. Quy mô sản xuất quân sự càng được mở rộng (nhất
là khi có chiến tranh) thì càng phải khấu trừ thêm vào phần lao động thặng dư
của xã hội, do đó sẽ hạn chế việc đầu tư phát triển khu vực kinh tế dân sự và
việc cải thiện đời sống của nhân dân.
Sản xuất quân sự có những đặc điểm gì khác so với sản xuất dân sự?
Trả lời:
Sản xuất quân sự có những đặc điểm khác so với sản xuất dân
sự, biểu hiện cụ thể như sau:
Một là, kết quả
của quá trình sản xuất quân sự là tạo ra các sản phẩm quân sự dùng để thoả mãn
nhu cầu tiêu dùng quân sự, đó là lĩnh vực tiêu dùng đặc biệt của xã hội. Còn
kết quả của quá trình sản xuất dân sự là nhằm tạo ra các sản phẩm đáp ứng nhu
cầu tiêu dùng dân sự.
: Sản xuất quân sự là gì? Nó có vị trí như thế nào trong nền kinh tế quốc dân?
Trả
lời:
Sản xuất quân sự là quá trình lao động sản xuất để tạo ra
các sản phẩm quân sự. Sản xuất quân sự bao gồm cả sản xuất và sửa chữa để bảo
đảm các sản phẩm cho nhu cầu quân sự.
Sản xuất quân sự
cũng là quá trình kết hợp giữa sức lao động với tư liệu sản xuất, nhưng nó là
một dạng đặc biệt của sản xuất vật chất nhằm tạo ra các sản phẩm quân sự, thoả
mãn nhu cầu quân sự. Nó bao gồm cả khu vực sản xuất ra các sản phẩm đặc thù cho
quân sự, cả khu vực sản xuất ra các sản phẩm khác, những sản phẩm không đòi hỏi
công nghệ đặc biệt, có thể thông qua trao đổi với khu vực sản xuất dân sự để
phục vụ cho nhu cầu quân sự.
Giữa tiềm lực kinh tế và sức mạnh quân sự có mối quan hệ với nhau như thế nào?
Trả lời:
Lý luận kinh tế quân sự Mác - Lê nin khẳng định: tiềm lực
kinh tế là nhân tố suy đến cùng quyết định sức mạnh quân sự, đồng thời sức mạnh
quân sự có tác động trở lại đối với tiềm lực kinh tế. Sự phụ thuộc của
sức mạnh quân sự vào tiềm lực kinh tế được thể hiện trên các nội dung cơ bản
sau đây:
Sức mạnh quân sự là gì? Sức mạnh quân sự của một quốc gia được tạo thành từ những nhân tố cơ bản nào?
Trả
lời:
Sức mạnh quân sự
là tổng thể lực lượng vật chất và tinh thần của một nhà nước (hay liên minh các
nước) và khả năng huy động các lực lượng đó để đạt được mục đích của chiến
tranh, hoặc thực hiện các nhiệm vụ khác. Nó được biểu hiện tập trung nhất ở sức
mạnh của lực lượng vũ trang trong thực hiện nhiệm vụ được giao, đặc biệt là
trong điều kiện chiến tranh. Sức mạnh quân sự của một nước là sức mạnh tổng hợp
của: tiềm lực quân sự; tiềm lực kinh tế; tiềm lực chính trị tinh thần; tiềm lực
khoa học - công nghệ.
Sức mạnh quân sự bao giờ
cũng phản ánh bản chất giai cấp của một nhà nước nhất định, không có sức mạnh quân
sự phi giai cấp. Mọi sự tuyên truyền về tính chất phi giai cấp của sức mạnh
quân sự chỉ là sự lừa bịp. Các nước khác nhau thì sức mạnh quân sự khác nhau.
Bởi vì, sức mạnh của các nhân tố và việc kết hợp chúng để tạo thành sức mạnh
quân sự là khác nhau.
Giữa tiềm lực kinh tế và tiềm lực kinh tế quân sự có mối quan hệ với nhau như thế nào?
Trả
lời:
Tiềm lực kinh tế quân sự là một bộ đặc biệt của tiềm lực
kinh tế, do đó nó có mối quan hệ biện chứng với tiềm lực kinh tế, một mặt nó
phụ thuộc vào tiềm lực kinh tế, mặt khác, nó có vai trò tác động trở lại đối
với tiềm lực kinh tế.
Sự phụ thuộc của tiềm
lực kinh tế quân sự vào tiềm lực kinh tế được thể hiện trên các nội dung cơ bản
sau đây:
Phân tích các bộ phận cấu thành tiềm lực kinh tế của một quốc gia? Tại sao nói nguồn nhân lực là bộ phận quan trọng nhất của tiềm lực kinh tế ?
Trả
lời:
Tiềm
lực kinh tế của một quốc gia là khả năng về kinh tế có thể khai thác, huy động
nhằm phục vụ cho phát triển kinh tế, phát triển xã hội và củng cố quốc phòng;
là cơ sở vật chất của các tiềm lực khác. Khi xem xét tiềm lực kinh tế của một
quốc gia phải xem xét cả lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất; cả yếu tố hiện
có và tiềm tàng của nền kinh tế. Dưới giác độ quân sự, tiềm lực kinh tế còn
được xem xét ở tính cơ động và sức sống của nền kinh tế. Tính cơ động của nền
kinh tế được biểu hiện tập trung ở khả năng chuyển hướng của nền kinh tế từ
thời bình sang thời chiến. Sức sống của nền kinh tế được biểu hiện tập trung ở
khả năng duy trì và phát triển kinh tế nhằm đáp ứng được nhu cầu hoạt động của
các lực lượng vũ trang, hoạt động của Nhà nước và đời sống dân sinh trong điều
kiện có chiến tranh.
Tư tưởng của Ph. Ăngghen về mối quan hệ giữa kinh tế với bạo lực trong tác phẩm chống “Đuy-rinh” có nội dung cơ bản như thế nào?
Trả
lời:
Tác phẩm chống “Đuy-rinh” của Ph. Ăngghen là tác phẩm
mang phong cách bút chiến, phê phán những tư tưởng sai trái của Học thuyết
Đuy-rinh trên tất cả các mặt Triết học, Kinh tế chính trị học, Chủ nghĩa xã hội
khoa học... Trong đó Ph. Ăngghen kịch liệt phê phán tư tưởng duy tâm, chủ quan,
phi lịch sử, phản khoa học của Đuy-rinh khi cho rằng: bạo lực là vĩnh viễn,
chính trị quyết định kinh tế, bạo lực quyết định kinh tế... Dựa trên cơ sở quan
điểm duy vật về lịch sử, Ph. Ăngghen khẳng định: một mặt, bạo lực phụ thuộc vào
kinh tế, mặt khác, bạo lực có vai trò tác động trở lại đối với kinh tế.
Quốc phòng và chiến tranh có tác động như thế nào đến phát triển kinh tế?Nghiên cứu vấn đề này có ý nghĩa gì đối với người cán bộ quân đội?
Trả
lời:
Kinh tế và quốc phòng, chiến tranh là những lĩnh vực khác
nhau nhưng có mối quan hệ biện chứng tác động qua lại lẫn nhau. Trong đó, kinh
tế là yếu tố suy đến cùng quyết định quốc phòng và chiến tranh; ngược lại, quốc
phòng và chiến tranh cũng tác động trở lại với kinh tế, sự tác động trở lại này
được xem xét trên cả hai mặt tích cực và tiêu cực.
Vai trò của kinh tế đối với quốc phòng và chiến tranh được thể hiện ở những nội dung nào?
Trả
lời:
Xuất
phát từ quan điểm sản xuất ra của cải vật chất là cơ sở của đời sống xã hội,
vận dụng nó để giải quyết mối quan hệ giữa kinh tế với chiến tranh và quốc
phòng. Chủ nghĩa Mác - Lê nin khẳng định, kinh tế là yếu tố suy đến cùng quyết
định đến chiến tranh và quốc phòng. Điều đó được thể hiện ở những nội dung cơ
bản sau đây:
Để nghiên cứu kinh tế quân sự Mác - Lênin cần sử dụng những phương pháp nào?
Trả
lời:
Để nghiên cứu tốt kinh tế quân sự Mác -
Lê nin cần phải sử dụng thành thạo các phương pháp nghiên cứu sau:
-
Thứ nhất, phải dựa trên cơ sở phương
pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lê nin để làm rõ
tính lịch sử, xã hội của các quá trình kinh tế quân sự gắn với chiến tranh và
quốc phòng. Trên cơ sở phương pháp luận này, chúng ta có thể phân tích và nhận
thức được sự hiện diện của bộ phận kinh tế quân sự trong nền kinh tế quốc dân
chỉ là một hiện tượng lịch sử, gắn với sự xuất hiện của chiến tranh, trong điều
kiện xã hội phân chia giai cấp; thấy được nguyên nhân sâu xa làm nảy sinh các
cuộc chiến tranh đều bắt nguồn từ sự mâu thuẫn về lợi ích kinh tế của các giai
cấp nhất định trong lịch sử; phân tích và làm rõ được mối liên hệ tất yếu giữa
điều kiện kinh tế với khả năng đảm bảo các nguồn vật chất, kỹ thuật cho lực
lượng vũ trang, với tổ chức, biên chế của lực lượng vũ trang, với chiến lược,
chiến thuật và nghệ thuật quân sự; đồng thời phân tích, làm rõ được tính chất
xã hội của các quá trình kinh tế quân sự, vạch rõ sự khác nhau căn bản về nội
dung xã hội của kinh tế quân sự Mác - Lê nin và kinh tế quân sự tư sản.
Kinh tế quân sự Mác - Lênin có những chức năng cơ bản nào?
Trả
lời:
Kinh
tế quân sự Mác - Lê nin có các chức năng cơ bản sau đây:
-
Chức năng nhận thức: Thực hiện chức
năng này, kinh tế quân sự Mác - Lê nin giúp
cho người học nhận thức đúng đắn mối quan hệ giữa kinh tế với chiến tranh và
quốc phòng, hiểu được bản chất các quá trình và hiện tượng kinh tế quân sự,
phát hiện ra các vấn đề có tính quy luật của đảm bảo kinh tế cho nhu cầu quân
sự và tìm hiểu các quy luật của bản thân kinh tế quân sự. Thông qua nhận thức
đúng đắn các hiện tượng, các quá trình và tính quy luật của kinh tế quân sự,
người học có cơ sở khoa học để vận dụng trong chỉ đạo thực tiễn xây dựng quân
đội, xây dựng khu vực kinh tế quân sự, củng cố quốc phòng.
Đối tượng nghiên cứu của kinh tế quân sự Mác-Lênin là gì?
Trả
lời:
Cũng như các môn khoa học khác, Khoa học kinh tế quân sự
Mác - Lê nin có đối tượng nghiên cứu riêng. Nó
là môn khoa học nghiên cứu các quá trình và hiện tượng kinh tế nảy sinh trong
quá trình chuẩn bị và tiến hành chiến tranh, nhằm phát hiện ra quy luật và
những vấn đề có tính quy luật trong đảm bảo kinh tế cho chiến tranh và quốc
phòng, phương pháp, cách thức đảm bảo, sử dụng có hiệu quả những lực lượng vật
chất để giải quyết các vấn đề quân sự.
- Như vậy, đối tượng nghiên cứu của khoa học kinh tế quân
sự trước hết là một bộ phận kinh tế hiện hữu, bộ phận đặc biệt của nền kinh tế
đảm bảo cho quá trình chuẩn bị và tiến
hành chiến tranh.
- Kinh tế quân sự Mác - Lê nin nghiên cứu cả
hai mặt: kinh tế - xã hội và kinh tế - kỹ thuật của khu vực kinh tế quân sự
trong một thể thống nhất hữu cơ. Nếu xem xét tách rời, tuyệt đối hoá một mặt
nào đó của khu vực kinh tế quân sự thì sẽ không đánh giá đúng được tiềm lực
kinh tế, tiềm lực kinh tế quân sự và sức mạnh quân sự của một quốc gia, không
thấy được sự ảnh hưởng to lớn của chế độ kinh tế - xã hội đến quá trình đảm bảo
kinh tế cho chiến tranh và quốc phòng.
- Kinh tế quân sự Mác - Lê nin còn nghiên cứu tất cả các
quá trình và hiện tượng kinh tế nảy sinh trong quá trình đảm bảo kinh tế cho
nhu cầu quân sự. Đó là quá trình sản xuất sản phẩm quân sự, phân phối, trao đổi
sản phẩm quân sự gắn liền với việc huy động các nguồn vật chất, kỹ thuật, tài
chính, nhân lực của nền kinh tế quốc dân cho các quá trình đó, nghiên cứu tiêu
dùng sản phẩm quân sự gắn liền với việc thực hiện giá trị sử dụng của các sản
phẩm quân sự thông qua hoạt động của các lực lượng vũ trang.
- Kinh tế quân sự Mác - Lê nin nghiên cứu trạng thái của
nền kinh tế trong điều kiện chuẩn bị và tiến hành chiến tranh. Nó nghiên cứu
các quá trình phát triển của nền kinh tế quốc dân bao gồm cả trình độ phát
triển sản xuất và tính chất chế độ kinh tế - xã hội gắn liền với sự cải tổ lại
nền kinh tế, làm cho nó thích ứng với yêu cầu của chiến tranh.
- Kinh tế quân sự Mác - Lê nin nghiên cứu bản chất các mối
quan hệ của tất cả những vấn đề đã trình bày ở trên để tìm ra những quy luật và
những vấn đề có tính quy luật của việc chuẩn bị kinh tế, đảm bảo kinh tế cho
chiến tranh và quốc phòng. Từ đó xác định nguyên tắc, con đường, phương hướng
đảm bảo các điều kiện vật chất cho lực lượng vũ trang và biện pháp sử dụng
chúng có hiệu quả để giải quyết các nhiệm vụ quân sự.
Kinh tế quân sự Mác - Lê nin và kinh tế học chính trị Mác -
Lê nin là những môn khoa học độc lập. Mặc dù cả hai bộ môn khoa học đều nghiên
cứu liên quan đến một lĩnh vực đặc biệt của xã hội, lĩnh vực kinh tế. Tuy
nhiên, mỗi môn khoa học lại nghiên cứu nó từ các phương diện khác nhau trong
những điều kiện khác nhau và tìm ra hệ thống các quy luật khác nhau. Nếu như
kinh tế chính trị Mác-Lê nin tập trung nghiên cứu quan hệ sản xuất trong mối
quan hệ tác động qua lại với lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng, từ đó
tìm ra quy luật kinh tế chi phối sự vận động của một phương thức sản xuất nhất định, thì khoa học kinh tế quân sự Mác -
Lê nin chỉ nghiên cứu một bộ phận đặc biệt của nền kinh tế, tìm ra quy luật và
những vấn đề có tính quy luật đảm bảo kinh tế cho chiến tranh và quốc phòng.
Như vậy, đối tượng nghiên cứu của khoa học kinh tế quân sự Mác - Lê nin hẹp hơn
kinh tế chính trị Mác - Lê nin. Tuy nhiên, kinh tế quân sự Mác - Lê nin có mối
quan hệ chặt chẽ với kinh tế chính trị Mác - Lê nin, cũng như nhiều môn khoa
học khác như Triết học Mác - Lê nin, Học thuyết Mác - Lê nin về chiến tranh và
quân đội, Học thuyết về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, lý luận nghệ thuật
quân sự, khoa học quân sự... Do đó, cần phải vận dụng hệ thống tri thức của các
môn khoa học đó để góp phần làm giàu thêm tri thức kinh tế quân sự Mác - Lê
nin.
Phân biệt kinh tế quân sự với tư cách là một bộ phận của nền kinh tế quốc dân và kinh tế quân sự với tư cách là một môn khoa học?
Trả lời:
Kinh
tế quân sự là một khái niệm thường được hiểu theo hai nghĩa. Một mặt, có thể
hiểu kinh tế quân sự là “một bộ phận của nền kinh tế quốc dân, đáp ứng nhu cầu
quân sự của nhà nước trong việc chuẩn bị và tiến hành chiến tranh”[1]. Mặt
khác, kinh tế quân sự còn được hiểu là một bộ môn khoa học “nghiên cứu lý luận
chung về kinh tế quân sự”[2].
Tăng sức đề kháng để ngăn chặn “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
QĐND
- Một trong những nội dung quan trọng của Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa XII là thảo luận, cho ý kiến và ra nghị quyết về “Tăng
cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến,"
"tự chuyển hóa" trong nội bộ”.
Thứ Bảy, 5 tháng 11, 2016
Nhận thức đúng về chuyến thăm Trung Quốc của Đại tướng Ngô Xuân Lịch
Vừa qua, nhận lời mời của Thượng tướng Thường Vạn Toàn, Ủy viên Quốc vụ, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng nước CHND Trung Hoa, Đại tướng Ngô Xuân Lịch, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã dẫn đầu Đoàn đại biểu quân sự cấp cao Việt Nam thăm chính thức Trung Quốc từ ngày 28 đến 31-8. Đây là chuyến thăm Trung Quốc đầu tiên của Đại tướng Ngô Xuân Lịch trên cương vị Bộ trưởng Quốc phòng. Trước đó, trên cương vị Bộ trưởng Quốc phòng, Đại tướng Ngô Xuân Lịch đã thăm hữu nghị chính thức 3 nước: Nga, Lào và Cam-pu-chia.
Đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực chính trị - tư tưởng trong quân đội hiện nay
1. Từ khi xã hội chủ nghĩa ở
Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ đến nay, các thế lực thù địch luôn coi Việt
Nam là một trọng điểm trong chiến lược “diễn biến hòa bình” (DBHB), mà mũi nhọn
chống phá nhằm vào lĩnh vực chính trị - tư tưởng. Chúng công kích, xuyên tạc,
phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối của Đảng,
chính sách của Nhà nước, chế độ XHCN và ra sức chống phá lực lượng vũ trang
nhân dân về chính trị. Trong đó, đối tượng hàng đầu mà chúng tập trung chống
phá quyết liệt là Quân đội nhân dân Việt Nam. Với nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo
quyệt để chống phá toàn diện quân đội, nhưng trước hết nhằm xoá bỏ sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với quân đội; xuyên tạc, phủ định mục tiêu, lý
tưởng và bản chất, truyền thống của quân đội; phá hoại mối đoàn kết mật thiết
giữa quân đội với nhân dân và tình đoàn kết quốc tế, làm cho quân đội giảm sút
sức mạnh chính trị, tinh thần, không còn là lực lượng chiến đấu, lực lượng
chính trị tin cậy và trung thành tuyệt đối của Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Thứ Sáu, 4 tháng 11, 2016
Nhiều hàng hóa được miễn thuế nhập khẩu
QĐND - Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 134/2016/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
Doanh nghiệp EU tìm kiếm cơ hội kinh doanh tại Việt Nam
QĐND Online- Ngày 3-11, tại Hà Nội, Phái đoàn Liên minh châu Âu
(EU) tại Việt Nam phối hợp với Bộ Công thương Việt Nam tổ chức hội thảo với chủ
đề “Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam-EU: An toàn thực phẩm và cơ hội tiếp
cận thị trường cho nông sản-đồ uống”. Ông Phil Hogan, Cao ủy Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn của EU, tham dự hội thảo.
Trước mỗi vấn đề từng người dân cần suy tính kỹ lưỡng
QĐND - Thời gian gần đây, tình trạng một số người dân tụ tập gây
mất an ninh trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn một số tỉnh miền Trung thực sự
là điều rất đáng lo ngại. Phải thẳng thắn thừa nhận rằng, những khó khăn và
thiệt hại không nhỏ về kinh tế, về việc làm, ảnh hưởng lớn đến đời sống của một
bộ phận người dân ở 4 tỉnh miền Trung do Formosa gây ra là điều hết sức đáng
trách, đáng bị phê phán.
Phạm Trần lại gây thêm tội lỗi
Như đã thành lệ, cứ sau mỗi kỳ đại hội, hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, các thế lực thù địch lại đẩy mạnh việc tuyên truyền các luận điệu nhằm xuyên tạc, phủ nhận các quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách,… vu khống, nói xấu Đảng. Không nằm ngoài quy luật đó, sau khi Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương khóa XII ra Nghị quyết về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, trên các trang mạng xã hội ngay lập tức đã xuất hiện các bài viết của một số phần tử phản động.
Nguyễn Thị Từ Huy đã đi vào ngõ cụt
Ngay từ khi ra đời, Đảng ta không có mục tiêu nào khác: vì độc lập dân tộc và cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân. Với mục tiêu cao cả đó, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân đứng lên đập tan ách thống trị của Thực dân Pháp gần 100 năm, xóa bỏ chế độ phong kiến hàng nghìn năm, tiến hành hai cuộc kháng chiến chống Thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, đưa dân tộc Việt Nam bước sang kỷ nguyên mới – kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Qua 30 năm đổi mới, mặc dù còn có những hạn chế, yếu kém cần khắc phục, song nhìn tổng thể, với sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. Vậy mà, ngày 28/9/2016 trong Blog RFA, Nguyễn Thị Từ Huy có bài viết: “Bộ phận nào trong xã hội có thể đẩy nhanh quá trình dân chủ hóa”.
Dù có xuyên tạc, Cách mạng Tháng Mười vẫn luôn tỏa sáng
Dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản (Bôn-sê-vích) Nga, giai cấp công nhân và nhân dân lao động Nga đã làm nên thắng lợi Cách mạng Tháng Mười năm 1917, mở ra bước ngoặt mới trong tiến trình lịch sử nhân loại. Thế nhưng, các thế lực thâm thù luôn xuyên tạc về Cách mạng Tháng Mười, song “bàn tay không che nổi mặt trời”, cuộc Cách mạng vĩ đại này vẫn luôn tỏa sáng.
Diễn kịch, làm hề – một kiểu làm thuê kiếm sống của bọn phản động
Những ngày gần đây, Nguyễn Hùng và Trần Hoài Nam với bài “Tổ chức nào có khả năng thay đổi chế độ tại Việt Nam” đăng trên “Danlambao”, đã làm hề, diễn kịch để xuyên tạc, bóp méo chính sách tự do tôn giáo của Đảng, Nhà nước và tình hình tôn giáo ở Việt Nam nhằm kích động giáo dân chống Đảng, Nhà nước, kêu gọi lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Nội dung bài viết tập trung vào một số vấn đề sau đây.
Thứ Năm, 3 tháng 11, 2016
Tăng cường rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng
QĐND - Từ nhiều năm nay, Đảng ta đã đề ra nhiều chủ trương, giải pháp nhằm xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu để xứng đáng với vị thế, trọng trách cầm quyền của Đảng trong hệ thống chính trị và xã hội. Vì vậy, việc quan tâm chăm lo xây dựng, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên, chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng luôn được Đảng ta xác định là một trong những nhiệm vụ, giải pháp cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay. Với ý nghĩa đó, Đại hội XII của Đảng đã khẳng định, phải quan tâm “xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức”.
Phải biến ý chí quyết tâm chính trị thành hành động chính trị
ĐND - Lãnh tụ V.I.Lê-nin từng nói: Cách mạng phải biết tự bảo vệ. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng khẳng định: Cách mạng phải lấy sức mạnh từ trong lòng dân và “Đảng là đạo đức, là văn minh”. Nhắc lại những lời chỉ dẫn quan trọng đó của hai vị lãnh tụ thiên tài, tôi muốn nhấn mạnh một điều: Một chính đảng muốn tồn tại, quy tụ được lòng dân, thuyết phục được người dân đi theo ngọn cờ tư tưởng chính trị của mình thì nhất thiết Đảng phải trong sạch, lành mạnh từ bên trong.
Cảnh giác với những luận điệu xuyên tạc cuộc đấu tranh chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
QĐND - Dường như đã thành quy luật, cứ đến những ngày kỷ niệm, các sự kiện chính trị xã hội quan trọng của Đảng, của đất nước, dân tộc…, thì các thế lực thù địch, những kẻ tự xưng là “nhà hoạt động xã hội”, “đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền”, “người yêu nước” lại “đẩy” lên các trang mạng, các web, blog,… những quan điểm sai trái, độc hại.
Trước mỗi vấn đề từng người dân cần suy tính kỹ lưỡng
QĐND - Thời gian gần đây, tình trạng một số người dân tụ tập gây mất an ninh trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn một số tỉnh miền Trung thực sự là điều rất đáng lo ngại. Phải thẳng thắn thừa nhận rằng, những khó khăn và thiệt hại không nhỏ về kinh tế, về việc làm, ảnh hưởng lớn đến đời sống của một bộ phận người dân ở 4 tỉnh miền Trung do Formosa gây ra là điều hết sức đáng trách, đáng bị phê phán.
CẢNH GIÁC TRƯỚC MƯU ĐỒ CHÍNH TRỊ CỦA HỘI TRUYỀN GIÁO "DÒNG CHÚA CỨU THẾ"
Dòng Chúa Cứu Thế là một hội truyền giáo của Giáo hội Công giáo Rôma với sứ mạng chuyên lo rao giảng Tin Mừng cho người nghèo, cô thân… với phương châm của hội dòng là “Tất cả cho người nghèo”. Ở Việt Nam, hiện Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam (DCCTVN) có gần 600 tu sĩ và tu sinh, có 22 cơ sở truyền giáo trên toàn quốc, hoạt động trên khắp đất nước Việt Nam. Tuy nhiên trong những năm gần đây, sau vụ ầm ỹ khiếu kiện đất đai ở Nhà thờ Thái Hà, người ta biết nhiều đến Dòng Chúa cứu thế qua hoạt động hậu thuẫn, tiếp tay, cổ vũ cho các nhóm người hoạt động chống Nhà nước Việt Nam.
SỰ THẬT VỀ NGUYỄN QUANG A VÀ GIẢI THƯỞNG “HOA TUYLIP VỀ NHÂN QUYỀN"
Giải thưởng hoa Tulip về nhân quyền của Hà Lan thực chất không phải tôn vinh nhân quyền, mà nó là một cánh tay nối dài cách mạng màu đến các nước thù địch, có thái độ không tốt với phương Tây. Nhìn qua danh sách đề cử của 91 con người được đề cử giải thường này thì có thể thấy các ứng viên của các quốc gia như: Năm nay có 10 ứng viên được chọn cho công chúng bình bầu trực tuyến bắt đầu từ 12h ngày thứ Hai 29/8 và kết thúc lúc 23g59 ngày thứ Tư 7/9: Tổ chức Nhân quyền Mwatana (Yemen), ông Pierre Claver Mbonimpa (Burundi), bà/cô Nighat Dad (Pakistan), Trung tâm El Nadim (Ai Cập), Trung tâm Nhân quyền cho Phụ nữ (Mexico), Cộng đồng bản xứ Santa Clara de Uchunya (Peru), Centro Prodh (Mexico), ông Nguyễn Quang A (Vietnam), bà/cô Nahid Gabralla (Sudan) và Hội người Leban vì Bầu cử Dân chủ (LADE) (Lebanon).
BỘ MẶT THẬT CỦA TỔ CHỨC KHỦNG BỐ VIỆT TÂN
Thời gian gần đây, qua nhiều thủ đoạn
và hình thức khác nhau, tổ chức khủng bố Việt Tân đã tăng cường các hoạt động
chống phá quyết liệt ở Việt Nam. Ngày 21/5/2016 Kênh truyền hình ANTV
phát phóng sự có tựa đề “Tổ chức phản động Việt Tân với mưu đồ kích động chống
phá”, trong đó lật mặt sự hình thành của tổ chức này cùng những hoạt động
chính trị nhằm lật đổ chính quyền trong nước. Phóng sự chỉ ra mục tiêu của
Việt Tân là kích động càng nhiều các cuộc tụ tập gây rối tạo thế đối đầu giữa
chính quyền và quần chúng hòng tập dượt theo kịch bản cách mạng đường phố.
ÂM MƯU, THỦ ĐOẠN VÀ PHƯƠNG THỨC SỬ DỤNG TRUYỀN THÔNG ĐỂ CHỐNG PHÁ CÁCH MẠNG VIỆT NAM CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH
Các thế lực phản động ở cả
trong và ngoài nước luôn tìm mọi cách để chống phá cách mạng Việt Nam với nhiều
hình thức ngày càng tinh vi, xảo quyệt. Đặc biệt chúng lợi dụng ưu thế, sức mạnh
của truyền thông để tuyên truyền, kích động nhân dân ở những thời điểm nhạy cảm,
những sự kiện, vấn đề liên quan đến tình hình kinh tế, chính trị, xã hội, quốc
phòng, an ninh để chống phá một cách quyết liệt gây hoang mang trong dư luận.
Đây là âm mưu, thủ đoạn cực kỳ thâm độc và nguy hiểm của các thế lực thù địch
mà chúng đang tiến hành; nó gây tâm lý hoài nghi, dao động, làm lung lạc niềm
tin vào sự nghiệp cách mạng của Đảng; tác động xấu đến nền kinh tế quốc dân. Bởi
vậy, chúng ta cần phải tỉnh táo, nâng cao cảnh giác, không để mắc mưu các lực
lượng thù địch, phản động.
THÔNG BÁO CỦA BỘ CÔNG AN VIỆT NAM, VIỆT TÂN LÀ TỔ CHỨC KHỦNG BỐ
Ngày
04/10 Bộ Công an ra thông báo dựa trên cơ sở pháp luật Việt Nam và pháp luật
quốc tế khẳng định Việt Tân là một tổ chức khủng bố. Thông báo của Bộ Công an
Việt Nam đã chỉ rõ:
HÃY NHÌN NHẬN VÀ ĐÁNH GIÁ CHO ĐÚNG SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA VIỆT NAM
Sau ba
mươi năm đổi mới nền kinh tế Việt Nam đã thu được những thành tựu quan trọng như, đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã
hội và trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình đang đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Đời sống của nhân dân được nâng
cao, tự do hạnh phúc được bảo đảm.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)