Khủng hoảng kinh tế dưới chủ nghĩa tư bản nó là một khuyết
tật không mong muốn, nó mang lại hậu quả nặng nề cho kinh tế - xã hội. Vì vậy,
các nhà kinh tế học luôn tìm tòi, nghiên cứu để tìm ra nguyên nhân nhằm khắc phục
khuyết tật đó, tiêu biểu như: Sismondi, C. Mác và J.M. Keynes
Thứ nhất, quan
điểm của Sismondi
Sismondi là một trong những người đầu tiên phân
tích nguyên nhân khủng hoảng kinh tế. Khủng hoảng kinh tế là nội dung chủ
yếu trong học thuyết của ông.
Theo Sismondi: Khủng hoảng kinh tế không phải là hiện
tượng ngẫu nhiên, cục bộ trong chủ nghĩa tư bản. Ông sử dụng lý
thuyết tiêu dùng không đủ để giải thích.
Nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế là do sự phân
phối. Theo ông, mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản là sản xuất tăng lên, còn tiêu
dùng tăng không kịp sản xuất, bởi quan hệ không đúng, gây bất bình đẳng về tài
sản quá lớn.
Ngoài ra, tốc độ tăng tiêu dùng
không kịp so với sản xuất do các nguyên nhân:
Một là, sự phát triển của chủ nghĩa tư bản làm
phá sản những người sản xuất nhỏ, làm tiêu dùng giảm.
Hai là, tình cảnh điêu đứng của người vô sản, thất
nghiệp, tiền lương thấp làm giảm tiêu dùng.
Ba là, bản thân giai cấp tư sản cũng có khuynh
hướng giảm tiêu dùng, tăng tích lũy.
Từ đó, Sismondi kết luận, chủ nghĩa tư bản càng phát
triển thì sản xuất càng mở rộng, mặt khác tiêu dùng ngày càng giảm
bớt, đó là nguyên nhân khủng hoảng kinh tế.
Thứ hai, quan
điểm của C. Mác
Theo C. Mác, khi nền kinh tế tư bản chủ nghĩa đạt
trình độ xã hội hóa cao thì khủng hoảng kinh tế là điều không tránh
khỏi.
Hình thức đầu tiên và phổ biến của khủng hoảng
kinh tế là sản xuất “thừa”. Khi khủng hoảng nổ ra, hàng hóa không
tiêu thụ được, sản xuất bị thu hẹp, nhiều doanh nghiệp bị phá sản,
công nhân thất nghiệp, thị trường rối loạn.
Nguyên nhân khủng hoảng kinh tế bắt nguồn từ chính
mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản. Đó là mâu thuẫn giữa tính
chất xã hội hóa cao của lực lượng sản xuất với chế độ sở hữu tư
nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội. Mâu
thuẫn này được biểu hiện thành các mâu thuẫn sau:
Một là, mâu thuẫn giữa sản xuất có tổ chức, kế hoạch
chặt chẽ trong từng xí nghiệp với khuynh hướng tự phát vô chính phủ
trên toàn xã hội.
Hai là, mâu thuẫn giữa khuynh hướng tích lũy, mở rộng sản xuất
không có giới hạn của nhà tư bản với sức mua ngày càng thu hẹp của người lao động
do bị bần cùng hóa.
Ba là, mâu thuẫn
đối kháng giữa giai cấp tư sản và giai cấp lao động làm thuê.
Thứ ba, quan
điểm của J.M. Keynes
J.M. Keynes giải
thích khủng hoảng kinh tế từ phân tích yếu tố tâm lý.
Ông cho rằng, tiêu dùng giới hạn là khuynh hướng phân
chia tiêu dùng tăng thêm cho phần thu nhập tăng thêm.
Tiêu dùng giới hạn có xu hướng giảm sút do khuynh
hướng tâm lý gia tăng tiết kiệm nhanh hơn gia tăng thu nhập. Điều đó
làm cho cầu tiêu dùng bị suy giảm, hàng hóa bị ế thừa, giá hàng
hóa bị giảm, lợi nhuận giảm, làm giảm hiệu quả giới hạn của tư
bản, làm cho doanh nghiệp không đầu tư sản xuất thêm, thậm chí đóng
cửa sản xuất, công nhân thất nghiệp, khủng hoảng kinh tế nổ ra.
Như vậy, theo J.M. Keynes, nguyên nhân khủng hoảng
kinh tế là vì tổng cầu nhỏ hơn tổng cung do các yếu tố tâm lý của
các chủ thể thị trường sinh ra. Từ phân tích trên, J.M. Keynes không tin
tưởng vào cơ chế thị trường và phê phán quan điểm của kinh tế học
cổ điển và tân cổ điển.
Bài viết ngắn, lượng tri thức truyền đạt nhiều.e cảm ơn thầy
Trả lờiXóa