Thứ nhất, lý thuyết lợi
thế tuyệt đối của A. Smith
A. Smith cho
rằng, các quốc gia sẽ có lợi khi tiến hành chuyên môn hóa sản xuất và trao đổi
sản phẩm cho nhau. Khi tiến hành phân công lao động giữa các quốc gia thì
các quốc gia phải dựa trên lợi thế tuyệt đối của mình. Nghĩa là, một quốc gia sẽ
tiến hành tập trung sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng mà khi sản xuất chúng
có hao phí cá biệt của quốc gia mình thấp hơn hao phí trung bình thế giới và sẽ
nhập khẩu những mặt hàng mà khi sản xuất chúng có hao phí cá biệt của quốc gia
mình cao hơn hao phí trung bình thế giới. Lý luận này có nhược điểm là nếu quốc
gia nào không có lợi thế tuyệt đối thì không thể tham gia vào quá trình trao đổi
trên thế giới.
Thứ hai, lý
thuyết lợi thế so sánh tương đối của D. Ricardo
D. Ricarđo
là người kế thừa và phát triển lý luận của A. Smith, trong đó có lý thuyết
về lợi thế so sánh:
Ông cho rằng, nếu một quốc gia có hiệu quả thấp hơn so với các quốc gia
khác trong việc sản xuất tất cả các loại sản phẩm, thì quốc gia đó vẫn có thể
tham gia vào thương mại quốc tế để tạo ra lợi ích.
Khi tham gia
vào thương mại quốc tế, nhờ chuyên môn hoá sản xuất mà xuất khẩu được các loại
hàng hoá mà việc sản xuất chúng ít bất lợi nhất (đó là những hàng hoá có lợi thế
tương đối); nhập khẩu các loại hàng hoá mà việc sản xuất chúng bất lợi lớn nhất
(đó là hàng hoá không có lợi thế tương đối).
Để chứng
minh cho luận điểm của mình, ông lấy ví dụ về sự trao đổi khăn mặt và rượu vang
giữa hai nước Anh và Bồ Đào Nha. Theo ông cả hai nước có thể tìm lợi thế so
sánh qua sự phân công lao động, chuyên môn hóa sản xuất ngay cả khi hiệu quả
kinh tế ở hai mặt hàng của họ đều thấp hơn trước.
Trước khi có sự phân công lao động lẫn nhau, tình hình sản xuất hai mặt
hàng khăn mặt và rượu vang của Anh và Bồ Đào Nha như sau:
Nước Anh sản
xuất 200 đơn vị khăn mặt với hao phí thời gian lao động là 200 đơn vị và 100
đơn vị rượu vang với hao phí thời gian lao động là 240 đơn vị. Nước Bồ Đào Nha
sản xuất 200 đơn vị khăn mặt với hao phí thời gian lao động là 180 đơn vị và 200
đơn vị rượu vang với hao phí thời gian lao động là 160 đơn vị. Hao phí thời
gian lao động trung bình của thế giới khi sản xuất 200 đơn vị khăn mặt và 200
đơn vị rượu vang là 190. Như vậy, Bồ Đào Nha là nước có lợi thế tuyệt đối khi sản
xuất cả hai mặt hàng này về phương diện hao phí thời gian lao động xã hội cần
thiết (khăn mặt: 180/190; rượu vang: 160/190. Trong khi đó nước Anh bị bất lợi
thế (khăn mặt: 200/190; rượu vang: 240/190).
Về lợi thế
so sánh khi lựa chọn mặt hàng để chuyên môn hóa sản xuất thì nước Bồ Đào Nha có
lợi thế hơn khi sản xuất rượu vang (160/190 > 180/190), còn đối với nước Anh
thì có lợi thế hơn khi sản xuất khăn mặt (200/190 < 240/190). Như vậy, nếu Bồ
Đào Nha tập trung sản xuất rượu vang còn Anh tập trung sản xuất khăn mặt và
trao đổi cho nhau thì cả hai sẽ tiết kiệm được hao phí thời gian lao động của
mình.
Sau khi có phân công lao động giữa hai nước, tình
hình sản xuất hai mặt hàng khăn mặt và rượu vang như sau:
Nước Anh sẽ
tập trung sản xuất 400 đơn vị khăn mặt với tổng chi phí lao động là 400 đơn vị
thời gian. Nước Bồ Đào Nha sẽ sản xuất 400 đơn vị rượu vang với tổng hao phí là
320 đơn vị thời gian. Như vậy, nước Anh sẽ được lợi thế so sánh khi tiết kiệm
được 40 đơn vị thời gian hao phí lao động, Bồ Đào Nha thì có lợi thế so sánh
khi tiết kiệm được 20 đơn vị thời gian lao động, do cả hai nước tiến hành phân
công lao động và chuyên môn hóa sản xuất, tập trung vào những mặt hàng nào nước
mình có lợi thế khi so sánh với mức hao phí lao động trung bình ở trình độ quốc
tế theo từng loại hàng hóa.
Lý thuyết lợi
thế so sánh của D.Ricado đã mở ra một hướng mới trong thương mại quốc tế. Nó
cho phép các quốc gia dù không có lợi thế tuyệt đối, cũng có thể tham gia vào
thương mại thế giới nếu biết lựa chọn mặt hàng mà mình có lợi thế so sánh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét