Thứ Tư, 9 tháng 11, 2016

Lý thuyết thương mại quốc tế của trường phái kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh?

Thứ nhất, lý thuyết lợi thế tuyệt đối của  A. Smith
A. Smith cho rằng, các quốc gia sẽ có lợi khi tiến hành chuyên môn hóa sản xuất và trao đổi sản phẩm cho nhau. Khi tiến hành phân công lao động giữa các quốc gia thì các quốc gia phải dựa trên lợi thế tuyệt đối của mình. Nghĩa là, một quốc gia sẽ tiến hành tập trung sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng mà khi sản xuất chúng có hao phí cá biệt của quốc gia mình thấp hơn hao phí trung bình thế giới và sẽ nhập khẩu những mặt hàng mà khi sản xuất chúng có hao phí cá biệt của quốc gia mình cao hơn hao phí trung bình thế giới. Lý luận này có nhược điểm là nếu quốc gia nào không có lợi thế tuyệt đối thì không thể tham gia vào quá trình trao đổi trên thế giới.

Thứ hai, l thuyết lợi thế so sánh tương đối của D. Ricardo
D. Ricarđo là người kế thừa và phát triển lý luận của A. Smith, trong đó có lý thuyết về lợi thế so sánh:
Ông cho rằng, nếu một quốc gia có hiệu quả thấp hơn so với các quốc gia khác trong việc sản xuất tất cả các loại sản phẩm, thì quốc gia đó vẫn có thể tham gia vào thương mại quốc tế để tạo ra lợi ích.
Khi tham gia vào thương mại quốc tế, nhờ chuyên môn hoá sản xuất mà xuất khẩu được các loại hàng hoá mà việc sản xuất chúng ít bất lợi nhất (đó là những hàng hoá có lợi thế tương đối); nhập khẩu các loại hàng hoá mà việc sản xuất chúng bất lợi lớn nhất (đó là hàng hoá không có lợi thế tương đối).
Để chứng minh cho luận điểm của mình, ông lấy ví dụ về sự trao đổi khăn mặt và rượu vang giữa hai nước Anh và Bồ Đào Nha. Theo ông cả hai nước có thể tìm lợi thế so sánh qua sự phân công lao động, chuyên môn hóa sản xuất ngay cả khi hiệu quả kinh tế ở hai mặt hàng của họ đều thấp hơn trước.
Trước khi có sự phân công lao động lẫn nhau, tình hình sản xuất hai mặt hàng khăn mặt và rượu vang của Anh và Bồ Đào Nha như sau:
Nước Anh sản xuất 200 đơn vị khăn mặt với hao phí thời gian lao động là 200 đơn vị và 100 đơn vị rượu vang với hao phí thời gian lao động là 240 đơn vị. Nước Bồ Đào Nha sản xuất 200 đơn vị khăn mặt với hao phí thời gian lao động là 180 đơn vị và 200 đơn vị rượu vang với hao phí thời gian lao động là 160 đơn vị. Hao phí thời gian lao động trung bình của thế giới khi sản xuất 200 đơn vị khăn mặt và 200 đơn vị rượu vang là 190. Như vậy, Bồ Đào Nha là nước có lợi thế tuyệt đối khi sản xuất cả hai mặt hàng này về phương diện hao phí thời gian lao động xã hội cần thiết (khăn mặt: 180/190; rượu vang: 160/190. Trong khi đó nước Anh bị bất lợi thế (khăn mặt: 200/190; rượu vang: 240/190).
Về lợi thế so sánh khi lựa chọn mặt hàng để chuyên môn hóa sản xuất thì nước Bồ Đào Nha có lợi thế hơn khi sản xuất rượu vang (160/190 > 180/190), còn đối với nước Anh thì có lợi thế hơn khi sản xuất khăn mặt (200/190 < 240/190). Như vậy, nếu Bồ Đào Nha tập trung sản xuất rượu vang còn Anh tập trung sản xuất khăn mặt và trao đổi cho nhau thì cả hai sẽ tiết kiệm được hao phí thời gian lao động của mình.
Sau  khi có phân công lao động giữa hai nước, tình hình sản xuất hai mặt hàng khăn mặt và rượu vang như sau:
Nước Anh sẽ tập trung sản xuất 400 đơn vị khăn mặt với tổng chi phí lao động là 400 đơn vị thời gian. Nước Bồ Đào Nha sẽ sản xuất 400 đơn vị rượu vang với tổng hao phí là 320 đơn vị thời gian. Như vậy, nước Anh sẽ được lợi thế so sánh khi tiết kiệm được 40 đơn vị thời gian hao phí lao động, Bồ Đào Nha thì có lợi thế so sánh khi tiết kiệm được 20 đơn vị thời gian lao động, do cả hai nước tiến hành phân công lao động và chuyên môn hóa sản xuất, tập trung vào những mặt hàng nào nước mình có lợi thế khi so sánh với mức hao phí lao động trung bình ở trình độ quốc tế theo từng loại hàng hóa.

Lý thuyết lợi thế so sánh của D.Ricado đã mở ra một hướng mới trong thương mại quốc tế. Nó cho phép các quốc gia dù không có lợi thế tuyệt đối, cũng có thể tham gia vào thương mại thế giới nếu biết lựa chọn mặt hàng mà mình có lợi thế so sánh.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét