Kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh ra đời vào cuối thế
kỷ XVII, tồn tại và phát triển cho đến giữa thế kỷ XIX với các tác giả chủ yếu
như: W. Petty, A. Smith, D. Ricardo. Lần đầu tiên các nhà kinh tế này xây
dựng hệ thống phạm trù, qui luật của kinh tế thị trường. Trong đó
có học thuyết giá trị - lao động gồm:
Một là, đã phân biệt hai thuộc tính của hàng hoá là giá trị
trao đổi và giá trị sử dụng. A. Smith là người đầu tiên phát hiện ra hai thuộc
tính này và khẳng định giá trị sử dụng không quyết định giá trị trao đổi. Tuy
nhiên, Ông chưa thấy được mối quan hệ giữa giá trị sử dụng với giá
trị trao đổi. Từ đó, Ông cho rằng, ích lợi của vật không quan hệ gì
đến giá trị trao đổi. D. Ricardo đã khắc phục hạn chế này và khẳng
định, giá trị sử dụng rất cần thiết cho giá trị trao đổi, nhưng
không phải là thước đo của giá trị trao đổi.
Hai là, đã vạch ra nguồn gốc của giá trị hàng hoá là lao động. Phát
hiện này được bắt nguồn từ quan niệm về giá cả tự nhiên của W. Petty. Ông viết,
giá cả tự nhiên do hao phí lao động quyết định.
Đến A. Smith, quan niệm về giá trị được xác định rõ ràng
hơn. Ông khẳng định giá trị trao đổi của hàng hoá do lao động tạo ra; lao
động là thước đo duy nhất, cuối cùng của giá trị trao đổi.
D. Ricardo đứng vững trên quan điểm này của A. Smith và
nhấn mạnh, giá trị là do lao động hao phí để sản xuất hàng hoá quyết định, lao
động là thước đo thực tế của mọi giá trị. Ông đã gạt bỏ sai lầm của A.
Smith về quan niệm giá trị và cho rằng, giá trị do lao động quyết
định không chỉ đúng trong kinh tế hàng hóa giản đơn, mà còn đúng cả
trong kinh tế hàng hóa phát triển.
Ba là, các ông đã quan tâm nghiên cứu lượng giá trị và các
nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hoá.
A .Smith khẳng định lượng giá trị hàng hoá do lao động
hao phí trung bình cần thiết quyết định; lao động giản đơn và lao động
phức tạp có ảnh hưởng khác nhau đến lượng giá trị hàng hóa. Trong
cùng một thời gian, lao động phức tạp tạo ra lượng giá trị nhiều hơn
so với lao động giản đơn.
D.Ricardo phát triển quan điểm này và cho rằng lượng giá trị hàng hoá
không chỉ do lao động trực tiếp (lao động sống) mà còn do lao động trước đó tạo
ra như (máy móc, nhà xưởng, công trình sản xuất...). Năng suất lao động
có ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa. Khi năng suất lao động
trong một phân xưởng tăng lên thì khối lượng sản phẩm làm ra tăng lên,
nhưng giá trị của mỗi đơn vị hàng hóa giảm xuống.
Bốn là, về hình thức của giá trị hàng hoá:
W. Petty xác định giá cả tự nhiên của hàng hoá bằng cách
so sánh lượng lao động hao phí để sản xuất ra hàng hoá với lượng lao động
để tạo ra bạc hay vàng, tức là còn lẫn lộn giữa giá trị hàng hóa
với giá cả của nó.
A .Smith đã phân biệt giá cả với giá trị. Theo ông giá
trị trao đổi của một hàng hoá thể hiện trong tương quan trao đổi giữa lượng của
hàng hóa này với lượng của hàng hóa khác, trong nền kinh tế hàng hóa
phát triển thì nó được biểu hiện ở tiền. Ông phân biệt được giá cả
tự nhiên với giá cả thực tế.
D. Ricardo phân
biệt giá cả tự nhiên với với giá cả thị trường, ông cho rằng giá cả thị trường
xoay quanh giá cả tự nhiên của nó; giá cả không phải do cung cầu quyết
định, cung cầu chỉ ảnh hưởng đến giá cả mà thôi. Ông phân biệt được
giá trị với giá trị trao đổi khi gọi giá trị trao đổi là giá trị
tương đối.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét