Thành tựu:
A.Smith có hai về khái niệm về địa
tô: Một là, địa tô là “khoản khấu trừ thứ nhất vào sản phẩm lao động”, là kết
quả của việc bóc lột người sản xuất trực tiếp; hai là, địa tô là “tiền trả cho
việc sử dụng đất đai”, “phụ thuộc vào mức độ phì nhiêu của đất đai”. Như vậy,
ông đã phát hiện được độc quyền tư hữu ruộng đất là điều kiện chiếm hữu địa tô.
Cả hai luận điểm trên đã phản ánh mối quan hệ giữa giai cấp địa chủ, tư bản
kinh doanh nông nghiệp và công nhân nông nghiệp.
Quan hệ giữa địa tô và giá cả,
A.Smith cho rằng: quy mô của địa tô nhiều hay ít là kết quả của giá cả sản phẩm,
ông coi địa tô là kết quả của giá cả độc quyền.
A. Smith đã phân biệt được địa tô chênh lệch do màu mỡ đất
đai và vị trí của đất đai đưa lại. Ông chỉ ra: mức tô trên mảnh đất ruộng là do
thu nhập của mảnh ruộng đó đưa lại. Địa tô trên những ruộng canh tác cây chủ yếu
(cây lương thực và thức ăn cho súc vật) quyết định địa tô trên ruộng trồng cây
khác.
Hạn chế:
Ông coi địa tô là phạm trù vĩnh viễn và còn chứng minh lợi
ích của chủ đất phù hợp với lợi ích của xã hội.
A. Smith chưa hiểu được một cách đúng đắn sự chuyển hoá lợi
nhuận siêu ngạch thành địa tô. Ông bị khống chế bởi tư duy sai lầm là giá cả tự
nhiên của hàng hóa do các nguồn thu nhập quyết định, từ đó dẫn đến những kết luận
khác nhau về địa tô (trước, địa tô được coi là yếu tố cấu thành của giá cả tự
nhiên, sau lại coi như một khoản dôi ra ngoài giá cả tự nhiên; trước coi địa tô
là nguyên nhân của giá cả, sau đó lại coi nó là hậu quả của giá cả).
Ông chưa hiểu được địa tô chênh lệch
II và phủ nhận địa tô tuyệt đối, tức địa tô mà người kinh doanh trên bất cứ loại
ruộng nào cũng phải trả cho địa chủ. Theo ông, kinh doanh trên ruộng đất xấu mà
phải nộp địa tô là trái quy luật giá trị.
Do chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa trọng nông dẫn đến ông
cho rằng, năng suất lao động nông nghiệp cao hơn năng suất lao động công nghiệp
do nông nghiệp có sự giúp đỡ của tự nhiên nên có địa tô.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét